Có Hình ⚡️ 50 năm thống nhất đất Nước | Cách Mỹ Đế đã bỏ rơi Miền Nam Việt Nam by James H. Willbanks!✍️ (P1)

YPOZ3FOP.png

James H. Willbanks

1. Việt Nam hóa

Năm Mậu Thân, 1968, đã chứng minh là thời điểm then chốt của Chiến tranh Việt Nam. Trong thời gian hưu chiến Tết năm đó, Quân đội Bắc Việt và lực lượng Việt Cộng (VC) đã phát động một cuộc tấn công quy mô lớn trên khắp miền Nam Việt Nam. Bắt đầu từ những ngày cuối tháng 1, họ đã tấn công hoặc pháo kích 36 trong số 44 tỉnh lỵ, 5 trong số 6 thành phố tự trị và 64 trong số 242 thị trấn huyện lỵ ở Việt Nam Cộng hòa. Tầm vóc và mức độ dữ dội của các cuộc tấn công này đã gây sốc cho công chúng Hoa Kỳ; trước đó, họ đã được các nhà lãnh đạo quân sự và chính trị Hoa Kỳ dẫn dắt để tin rằng tình thế đã thay đổi trong cuộc đấu tranh chống lại người Cọng Xả ở Việt Nam.

Dù người Cọng Xả có lợi thế là yếu tố bất ngờ, các lực lượng Hoa Kỳ và miền Nam đã phản ứng nhanh chóng với mối đe dọa mới, đẩy lùi kẻ thù và giành lại quyền kiểm soát tình hình ở hầu hết các khu vực. Chỉ ở Sài Gòn và kinh đô Huế, cuộc giao tranh thực sự mới kéo dài hơn một tuần. Cuối cùng, cuộc tấn công đã dẫn đến thất bại quân sự cho lực lượng Cọng Xả, họ đã phải trả giá đắt cho những thắng lợi ban đầu của mình. Theo ước tính, số thương vong của VC và Bắc Việt là từ 32.000 đến 58.000 người. Mặc dù con số thương vong thực tế có thể còn gây tranh cãi, nhưng hầu hết các nhà chức trách đều đồng ý rằng Việt Cộng đã phải chịu tổn thất rất nhiều trong cuộc giao tranh Tết và không còn là mối đe dọa quân sự đáng kể trong suốt thời gian còn lại của cuộc chiến. Tuy nhiên, ở cấp độ chiến lược, cuộc tấn công đã chứng tỏ là một chiến thắng về mặt tâm lý cho lực lượng Cọng Xả. Tổng thống Lyndon B. Johnson đã bị chấn động bởi cường độ và quy mô của cuộc tấn công của kẻ thù. Khi Tướng William C. Westmoreland, chỉ huy quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam, yêu cầu gửi thêm 206.000 quân, nhiều người Mỹ có ảnh hưởng, cả trong và ngoài chính quyền Hoa Kỳ, bao gồm nhiều người trước đây đã ủng hộ nỗ lực chiến tranh, bắt đầu đặt câu hỏi về sự tham gia liên tục của Hoa Kỳ vào cuộc chiến tranh Đông Nam Á mà giờ đây có vẻ như không thể nào thắng được. Phong trào phản chiến đã có thêm sức mạnh mới. Vào ngày 31 tháng 3, một tổng thống buồn bã tuyên bố ông sẽ không ra tái tranh cử chức tổng thống. Johnson đã ra lệnh Hoa Kỳ dừng ném bom miền Bắc phía trên vĩ tuyến 20 và đồng thời đề xuất đàm phán hòa bình với Cọng Xả. Nói rằng mình đang phát động một “cuộc tấn công hòa bình”, Johnson đã cử cựu đại sứ Averell Harriman đến Paris để bắt đầu đàm phán với Bắc Việt. Điều này báo trước một sự thay đổi sâu sắc trong cả thái độ của người Mỹ đối với cuộc chiến và chiến lược chính thức của Hoa Kỳ. Rõ ràng là không có “ánh sáng cuối đường hầm” và nhiều người Mỹ đã đi đến kết luận rằng đã đến lúc chấm dứt chiến tranh ở miền Nam bằng cách này hay cách khác.

NIXON TRÊN LỘ TRÌNH CHIẾN DỊCH

Trong khi Johnson đang cố gắng giải quyết hậu quả của cuộc tấn công Tết Mậu Thân, Richard M. Nixon đang vận động tranh cử mạnh mẽ cho chức vụ mà tổng thống đương nhiệm Johnson sẽ sớm rời bỏ. Nixon đã đưa cuộc chiến tranh ở Việt Nam trở thành một yếu tố chính trong cương lĩnh của mình cho cuộc tranh cử tổng thống năm 1968. Vào ngày 5 tháng 3, trong một bài phát biểu tại Hội trường Cựu chiến binh Hoa Kỳ ở Hampton, New Hampshire, Nixon đã nói, “Tôi cam kết với các bạn một ban lãnh đạo mới sẽ chấm dứt chiến tranh và giành được hòa bình ở Thái Bình Dương.” Bất chấp những.lời phản đối sau đó của ông, ứng cử viên Nixon đã tạo cho nhiều cử tri ấn tượng rằng mình có một “kế hoạch bí mật” để chấm dứt chiến tranh.

Trong một tuyên bố trên đài phát thanh vào ngày 8 tháng 3, ông nói, “Điều cần thiết là chúng ta phải chấm dứt cuộc chiến này và chấm dứt nó một cách nhanh chóng… nhưng điều cần thiết là chúng ta phải chấm dứt nó theo cách mà chúng ta có thể giành được hòa bình.” Vận động tranh cử tại Wisconsin vào cuối tháng đó, ông đã làm rõ lập trường của mình, tuyên bố, “Mục tiêu của quốc gia là giúp người Nam Việt Nam chiến đấu trong cuộc chiến chứ không phải chiến đấu cho họ. . . . Nếu họ không gánh vác phần lớn gánh nặng trong việc tự vệ, họ sẽ không được cứu giúp.”

Trong nỗ lực tìm ra phương tiện để chấm dứt chiến tranh, Nixon đã phải đối mặt với những vấn đề tương tự mà Lyndon Johnson đã phải đối mặt. Việc leo thang và cam kết tăng cường số lượng quân nhân Hoa Kỳ đã không hiệu quả; cuộc tấn công Tết Mậu Thân năm 1968 đã chứng minh thực tế đó quá rõ ràng. Bế tắc là không thể chấp nhận được vì công chúng Hoa Kỳ ngày càng bất ổn sẽ không còn chịu đựng được một cam kết lâu dài cho một cuộc chiến không thể thắng được. Câu trả lời là rút khỏi Việt Nam, nhưng câu hỏi—một câu hỏi chính trị—là làm thế nào để thực hiện điều đó một cách khéo léo mà không bỏ rơi Việt Nam vào tay Cọng Xả. Nixon đã đấu tranh riêng tư với vấn đề này, duy trì thái độ tương đối kín đáo trước công chúng về vấn đề Việt Nam sau thông báo ngày 31 tháng 3 của Johnson rằng ông sẽ không tái tranh cử.

Nixon nói với tờ New York Times rằng ông sẽ không chỉ trích Johnson để xem “cuộc tấn công hòa bình” của tổng thống có thể thu hút được gì từ Bắc Việt.

Vào ngày 26 tháng 7, Nixon bay đến Washington theo yêu cầu của Tổng thống Johnson để được nghe tóm tắt về Việt Nam từ Bộ trưởng Ngoại giao Dean Rusk và Cố vấn An ninh Quốc gia Walt W. Rostow. Sau các cuộc họp tóm tắt, Johnson giải thích với Nixon về những gì ông đang cố gắng thực hiện trong các cuộc đàm phán với Bắc Việt; tổng thống cay đắng vì người Cọng Xả đã không phản ứng tích cực hơn với lời đề nghị hòa bình của ông. Rusk cảnh báo Nixon rằng theo ý kiến của ông, “hoảng loạn” sẽ xảy ra trên khắp Châu Á nếu Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam mà không có một giải pháp hòa bình “danh dự”. Nixon nói rằng ông sẽ tiếp tục ủng hộ các mục tiêu của Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam và “cam kết không làm suy yếu vị thế đàm phán của Johnson trong trường hợp Cọng Xả thay đổi. . . .”

Vào ngày 3 tháng 8 năm 1968, Nixon tiết lộ thêm về suy nghĩ của riêng mình về cách giải quyết câu đố Việt Nam khi ông gửi ý tưởng của mình về việc chấm dứt chiến tranh đến cuộc họp ủy ban quốc gia đảng Cộng Hòa tại Đại hội toàn quốc của Đảng Cộng hòa ở Miami. Ông viết rằng “cuộc chiến phải được chấm dứt . . . ,” nhưng cảnh báo “phải kết thúc một cách danh dự, phù hợp với các mục tiêu hạn chế của Hoa Kỳ và với các yêu cầu lâu dài về hòa bình ở Châu Á.” Sau đó, lần đầu tiên, ông trở nên cụ thể hơn về cách đạt được nền hòa bình này trong danh dự. Ông ủng hộ việc tiếp tục tiến hành chiến tranh cho đến khi kẻ thù đồng ý ký kết một nền hòa bình danh dự, đồng thời cải thiện vũ khí và huấn luyện cho QĐVNCH. Nixon sau đó đã mô tả suy nghĩ của mình vào thời điểm đó: “Khi họ [lực lượng Nam Việt Nam] được đưa vào, quân đội Hoa Kỳ có thể—và nên được—loại bỏ dần. Việc loại bỏ dần này sẽ cứu sống người Mỹ và cắt giảm chi phí của Hoa Kỳ.”

Vào ngày 7 tháng 8 tại Đại hội toàn quốc của Đảng Cộng hòa, Nixon chính thức nhận được đề cử của đảng mình cho chức tổng thống. Đối thủ Dân chủ của ông là Phó Tổng thống Hubert H. Humphrey của Minnesota. Trong chiến dịch bầu cử sau đó, Humphrey, theo nhà viết tiểu sử của Nixon là Stephen E. Ambrose, đã “bị mắc kẹt” vì ông không thể tách khỏi Johnson về vấn đề Việt Nam, và do đó ông không thể có cách tiếp cận “ôn hòa” hơn đối với cuộc chiến, điều này sẽ giúp cử tri có sự lựa chọn rõ ràng giữa ông và Nixon. Nixon đã chỉ thị cho các nhà tư tưởng và cây bút cốt cán “đặt con khỉ Việt Nam lên lưng Humphrey, chứ không phải Johnson.” Đồng thời, ông tránh đưa ra bất kỳ bình luận thực chất nào về cách chấm dứt chiến tranh, khiến Humphrey khó có thể tấn công ông về các chi tiết cụ thể. Đó là một động thái chính trị tài tình, và Humphrey nhanh chóng trở thành mục tiêu của tất cả những ai ghét chính quyền Johnson và việc chính quyền này tiếp tục chiến tranh và/hoặc không thể giành chiến thắng. Cuộc chiến là một vấn đề nóng hổi của chiến dịch, như đã được chứng minh bằng đại hội đảng Dân chủ thảm khốc ở Chicago dẫn đến bạo loạn trên đường phố.

iF0vqoG0.png

Bộ trưởng Quốc phòng Laid và Đại sứ Mỹ Bunker đến gặp Thiệu vào tháng 3, 1969
Nixon biết rằng Tổng thống Johnson đang chuẩn bị công bố một lệnh tạm dừng ném bom mới. Nhận ra rằng lệnh tạm dừng sẽ là một lợi ích cho Humphrey, ông đã ra một tuyên bố dứt khoát rằng ông sẽ ủng hộ lệnh tạm dừng ném bom và hứa sẽ “không chơi trò chính trị với cuộc chiến này.” Lời hứa của ông là rỗng tuếch, vì cả hai bên đều đã “chơi trò chính trị” với cuộc chiến kể từ khi bắt đầu cuộc xung đột. Nixon đã cố gắng làm giảm bớt một số tác động của tuyên bố của Johnson, nhưng việc ngừng ném bom vẫn dẫn đến sự gia tăng ủng hộ đối với Humphrey và đảng Dân chủ. Tuy nhiên, sự gia tăng này không kéo dài được lâu, vì vào ngày 2 tháng 11, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu của Nam Việt Nam tuyên bố rằng chính phủ của ông sẽ không tham gia vào các cuộc đàm phán hòa bình Paris. Tuyên bố của ông thực sự đã làm suy yếu sáng kiến hòa bình của Johnson và bất kỳ khoản lợi nhuận chính trị tiềm năng nào cho Hubert Humphrey và đảng Dân chủ.

NIXON CHIẾN THẮNG

Vào ngày 5 tháng 11, bất chấp một loạt hoạt động vào phút chót của đảng Dân chủ, Nixon đã giành được 43,4 phần trăm số phiếu phổ thông so với 42,7 phần trăm của Humphrey, và giành được 301 phiếu đại cử tri so với 191 phiếu của đối thủ. Vấn đề của Johnson giờ là của Nixon,và sau khi giành được chiến thắng hứa hẹn sẽ chấm dứt chiến tranh, tổng thống đắc cử phải thực hiện lời hứa đó và tạo ra một kế hoạch khả thi để đạt được hứa hẹn “hòa bình trong danh dự”. Nhà sử học George C. Herring cho rằng Nixon rõ ràng nhận thức được rằng tương lai chính trị và vị thế của ông trong lịch sử sẽ được xác định bởi khả năng giải thoát đất nước khỏi vũng lầy Việt Nam của ông. Nixon nói với một trong những cố vấn của mình, “Tôi sẽ không kết thúc như LBJ, ẩn náu trong Nhà Trắng và sợ phải lộ mặt trên phố. Tôi sẽ chấm dứt cuộc chiến đó. Nhanh chóng.”

Cuối cùng, ông thấy đó không phải là một nhiệm vụ dễ dàng. Vào ngày 11 tháng 11, Nixon đã đến Nhà Trắng để tham dự một phúc trình về chính sách đối ngoại từ Johnson và các cố vấn của ông ta. Chủ đề chính là chiến tranh Việt Nam. Nixon đã được Bộ trưởng Ngoại giao Rusk, Bộ trưởng Quốc phòng Clark M. Clifford, Cố vấn An ninh Quốc gia Rostow, Giám đốc Cơ quan Tình báo Trung ương Richard M. Helms và Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Earle G. Wheeler phúc trình ngắn gọn. Theo Nixon, “Tất cả họ đều nhấn mạnh rằng Hoa Kỳ phải đưa cuộc chiến tranh đi đến hồi kết thành công — bằng các cuộc đàm phán nếu có thể, nhưng tiếp tục chiến đấu nếu cần thiết”. Những người phúc trình cũng cảnh báo rằng “một cuộc rút quân của người Mỹ, hoặc một giải pháp đàm phán có thể được hiểu là một thất bại, sẽ gây ra tác động tàn khốc” đối với các đồng minh và bạn bè của Hoa Kỳ ở Châu Á và trên toàn thế giới.

Clifford đã đưa ra cho tổng thống đắc cử ba phương án để cân nhắc khi ông chuẩn bị nhậm chức: Nixon có thể tiếp tục chiến đấu mà không theo đuổi các cuộc đàm phán; ông có thể tổ chức các cuộc đàm phán đơn phương riêng tư với Hà Nội; hoặc ông có thể gây sức ép buộc Thiệu đến Paris để tham gia các cuộc đàm phán.

Clifford đề xuất phương án cuối cùng, nói rằng Tổng thống Johnson có thể giúp chuẩn bị bối cảnh cho cách tiếp cận này bằng cách thông báo cho Thiệu rằng các cuộc đàm phán sẽ tiếp tục, có hoặc không có ông ta. Clifford nghĩ rằng tổng thống Nam Việt Nam sẽ bị buộc phải tham gia. Đồng thời, Clifford nói, Johnson nên thực hiện các biện pháp để giảm mức độ giao tranh và bắt đầu rút quân khi ông chuẩn bị rời nhiệm sở. Clifford cảm thấy rằng một hướng đi như vậy sẽ là “một bước tiến lớn để chấm dứt chiến tranh” và Nixon có thể “dọn dẹp các chi tiết” sau khi nhậm chức.

Bất chấp các khuyến nghị của Clifford, Nixon sau đó đã viết trong hồi ký của mình rằng Johnson và các cố vấn của ông “không có cách tiếp cận mới nào để đề xuất với tôi”. Tuy nhiên, sau cuộc họp, ông nói với báo chí rằng ông sẽ hoàn toàn ủng hộ các chính sách của tổng thống sắp mãn nhiệm và chính quyền Johnson sẽ phát biểu thay mặt cho chính quyền mới của ông trong hai tháng tiếp theo cho đến khi ông nhậm chức; ông cho biết ông hy vọng rằng chính sách một tiếng nói sẽ dẫn đến “một số hành động và tiến bộ rất quan trọng hướng tới hòa bình”.

Vào ngày 25 tháng 11, Nixon đã gặp giáo sư Henry Kissinger của Harvard tại văn phòng chuyển giao Nhà Trắng tại Khách sạn Pierre ở New York. Tổng thống đắc cử đã thảo luận các ý tưởng về chính sách đối ngoại với người mà ông đang cân nhắc cho chức vụ cố vấn an ninh quốc gia, nói về NATO, Liên Xô, Trung Quốc, và Trung Đông. Khi họ nói đến chủ đề Việt Nam, cả hai đều đồng ý rằng họ cần phải suy nghĩ lại toàn bộ chính sách ngoại giao và quân sự đối với Việt Nam để “tránh cái bẫy mà Johnson đã rơi vào” là chỉ dành cho một quốc gia hầu như toàn bộ thời gian và năng lượng cho chính sách đối ngoại của tổng thống. Đối với cả hai nhân vật chiến tranh ở Việt Nam là một phần của vấn đề lớn hơn nhiều về an ninh và ảnh hưởng của Mỹ trên toàn thế giới. Nixon nhớ lại rằng ông cảm thấy “một trực giác mạnh mẽ về Henry Kissinger, và tôi đã quyết định ngay tại chỗ rằng ông ấy nên là Cố vấn An ninh Quốc gia của tôi”. Hai ngày sau, Nixon đề nghị Kissinger đảm nhiệm vị trí này và Kissinger đã chấp nhận. Liên minh giữa Nixon và cố vấn an ninh quốc gia mới của mình sẽ có tác động to lớn đến việc tiến hành chiến tranh ở Việt Nam và cuối cùng là đến sự tồn tại liên tục của Nam Việt Nam như một quốc gia có chủ quyền.

Vào ngày 12 tháng 12, Nixon đã gặp lại Tổng thống Johnson tại Nhà Trắng để thảo luận về tình hình ở Việt Nam, và một lần nữa Johnson đã thúc giục Nixon tiếp tục theo đuổi con đường này. Tổng thống đắc cử đã hứa rằng ông sẽ làm như vậy và hứa thêm rằng mình sẽ đảm bảo Johnson sẽ nhận được sự tín nhiệm mà mình xứng đáng khi chiến tranh kết thúc thành công.

Cuối tháng đó, Nixon và cố vấn an ninh quốc gia mới của ông đã có lời đề nghị đầu tiên với các nhà đàm phán Bắc Việt tại Paris. Sử dụng doanh nhân người Pháp Jean Sainteny làm trung gian, Nixon và Kissinger đã gửi cho Bắc Việt một thông điệp rằng tổng thống mới quan tâm đến việc kết thúc chiến tranh bằng đàm phán. Bắc Việt trả lời rằng rào cản chính đối với các cuộc đàm phán có ý nghĩa là việc Hoa Kỳ tiếp tục ủng hộ chính quyền Thiệu và những “yêu cầu vô lý” của họ. Nixon, “không ngạc nhiên cũng không nản lòng” trước khởi đầu không mấy tốt đẹp cho chính quyền mới, sau đó đã mô tả quan điểm của mình về Việt Nam khi ông chuẩn bị chuyển vào Nhà Trắng: “Tôi bắt đầu nhiệm kỳ tổng thống của mình với ba tiền đề cơ bản liên quan đến Việt Nam. Đầu tiên, tôi sẽ phải chuẩn bị dư luận cho thực tế rằng chiến thắng quân sự toàn diện không còn khả thi nữa. Thứ hai, tôi sẽ phải hành động theo những gì lương tâm, kinh nghiệm và phân tích của tôi mách bảo là đúng về việc cần phải giữ lại cam kết của chúng ta. Việc từ bỏ miền Nam Việt Nam cho Cọng Xả bây giờ sẽ khiến chúng ta phải trả giá vô cùng đắt trong hành trình tìm kiếm một nền hòa bình ổn định, có cấu trúc và lâu dài. Thứ ba, tôi sẽ phải kết thúc chiến tranh càng nhanh càng tốt.

Ông cũng tuyên bố rằng ông đã loại trừ một chiến thắng quân sự nhanh chóng và “đã chuẩn bị dành phần lớn năm đầu tiên tại nhiệm để đi đến một thỏa thuận đàm phán” nhằm bảo vệ nền độc lập của Nam Việt Nam. Vị tổng thống mới không nhận ra rằng việc đạt được thỏa thuận với Bắc Việt sẽ mất thêm ba năm nữa và thêm 20.552 sinh mạng người Mỹ.

NIXON NHẬN NHIỆM VỤ

Vào ngày 20 tháng 1 năm 1969, Richard Milhous Nixon đã tuyên thệ nhậm chức tổng thống thứ 37 của Hoa Kỳ. Trong bài phát biểu nhậm chức của mình, ông đã nhắc lại mong muốn đạt được một giải pháp hòa bình tại Việt Nam, nhưng cũng nêu rõ quyết tâm đưa cuộc chiến này đến hồi kết trong danh dự. Nixon đã cảnh báo rằng “Đối với tất cả những ai bị cám dỗ bởi sự yếu đuối, chúng ta hãy chắc chắn rằng chúng ta sẽ cần phải mạnh mẽ khi cần thiết”.

Vào ngày đầu tiên nhậm chức, Nixon đã bắt tay vào công việc. Ông đã ban hành Bản ghi nhớ Nghiên cứu An ninh Quốc gia 1 (NSSM 1), có tiêu đề “Tình hình tại Việt Nam”. Tài liệu dài 6 trang, cách đơn, được gửi đến các thành viên được chọn của chính quyền mới, yêu cầu trả lời 29 câu hỏi chính và 50 câu hỏi phụ về tình hình ở Đông Nam Á. Trong số những người nhận được bản ghi nhớ có Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, Cơ quan Tình báo Trung ương, Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân, Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Sài Gòn và Bộ Tư lệnh Hỗ trợ Quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (MACV), cũng ở Sài Gòn. Các câu hỏi bao gồm sáu loại chính: các cuộc đàm phán (câu hỏi 1–4), tình hình của kẻ thù (5–10), tình trạng của các lực lượng vũ trang Nam Việt Nam (11–13), tình trạng của nỗ lực bình định (14–20), tình hình chính trị ở Nam Việt Nam (21–23) và các mục tiêu của Hoa Kỳ (24–29).

NSSM 1 là nỗ lực của Nixon nhằm đưa ra một số chiến lược khả thi bằng cách tìm kiếm các quan điểm khác nhau sẽ đưa ra ước tính toàn diện về tình hình ở Nam Việt Nam. Theo Henry Kissinger, bản ghi nhớ được thiết kế “để làm sâu sắc thêm bất kỳ sự bất đồng nào để chúng ta có thể xác định rõ các câu hỏi gây tranh cãi và các quan điểm khác nhau.” Trọng tâm của các câu hỏi chỉ ra một số mối quan tâm chính của tổng thống mới: khả năng tồn tại của chính quyền Thiệu và khả năng của Nam Việt Nam trong việc tiếp tục cuộc chiến sau bất kỳ cuộc rút quân nào của Hoa Kỳ. Nguồn gốc của những mối quan tâm này là một đánh giá tình báo mà Nixon đã đọc vào tháng 12 trước khi nhậm chức; trong báo cáo này, CIA đã chỉ trích rất nhiều chính quyền Thiệu và khả năng của lực lượng vũ trang Nam Việt Nam.
 
546JPhN.png

Tổng thống Nixon và Thiệu tuyên bố chính sách mới của Mỹ về “Việt Nam hóa” tại hội nghị Midway, 8 tháng 6 1969

Nhà sử học William M. Hammond cho rằng những lo lắng của Nixon về khả năng của Nam Việt Nam thậm chí còn tăng lên hơn nữa khi, ngay sau khi NSSM 1 được ban hành, tổng thống mới có dịp xem qua bài viết “Việt Nam có nguồn lực nhưng thiếu động lực để giành chiến thắng”, một bản ghi nhớ chưa ký tên được cho là do một người miền Nam hiểu biết biên soạn. Tác giả của tài liệu khẳng định rằng các vấn đề của Nam Việt Nam nghiêm trọng đến mức nó không bao giờ có thể sống còn nếu Hoa Kỳ rút quân quá nhanh khỏi cuộc chiến và người Mỹ sẽ phải ngưng các lịch trình rút quân và tiếp tục đảm bảo sự toàn vẹn của Nam Việt Nam cho đến khi quốc gia đó có thể tự đứng vững.

Đối mặt với những đánh giá bi quan trong cả báo cáo của CIA và bản ghi nhớ chưa ký, Nixon muốn có được bức tranh rõ ràng hơn về tình hình ở Đông Nam Á. NSSM 1 được thiết kế để thực hiện chính xác điều đó.

Nếu Nixon muốn có những quan điểm và ý kiến khác nhau về cuộc chiến, ông chắc chắn đã có được chúng trong nhiều phản hồi khác nhau cho những gì được chính quyền gọi là “29 câu hỏi”. Kissinger và nhân viên của ông đã tóm tắt các phản hồi cho NSSM 1 trong một bài báo dài bốn mươi bốn trang được gửi đến Nhóm đánh giá của Hội đồng An ninh Quốc gia vào ngày 14 tháng 3 năm 1969. Báo cáo này cho thấy sự đồng thuận chung giữa hầu hết những người cho rằng Việt Nam Cộng hòa không thể trong tương lai gần chống lại cả Việt Cộng và Quân Bắc Việt. Tương tự như vậy, hầu hết những người trả lời đều đồng ý rằng Chính quyền miền Nam khó có thể chống lại được cuộc tranh chấp chính trị nghiêm trọng từ Mặt trận Giải phóng (MTGP). Họ cũng đồng ý rằng kẻ thù, mặc dù đã suy yếu nghiêm trọng do tổn thất trong cuộc Tổng công kích Tết Mậu Thân, vẫn là một lực lượng hùng hậu và có khả năng được cải tạo và tăng cường từ Bắc Việt.

Mặc dù có những đánh giá tương tự về tương lai ngắn hạn ở Việt Nam, những người trả lời NSSM 1 lại không đồng tình mạnh mẽ ở những khía cạnh khác. Những phản ứng trái ngược nhau phản ánh hai trường phái tư tưởng, khác nhau chủ yếu về đánh giá tiến độ đạt được cho đến thời điểm đó và dự báo dài hạn cho tình hình ở Đông Nam Á. Trường phái tư tưởng lạc quan hơn, được đại diện tốt nhất bởi phản ứng của MACV và được chia sẻ bởi Đại sứ Ellsworth Bunker tại Sài Gòn, Tổng tham mưu trưởng tại Lầu Năm Góc và Đô đốc John S. McCain Jr. (tổng tư lệnh Lực lượng Thái Bình Dương của Hoa Kỳ), cho rằng Bắc Việt đã đồng ý tham gia các cuộc đàm phán hòa bình tại Paris vì sự yếu kém về quân sự của họ, rằng những thành quả bình định là có thật và “sẽ được duy trì”, và rằng “xu hướng đang thuận lợi”.

Tướng Creighton W. Abrams Jr., người kế nhiệm Tướng William C. Westmoreland vào tháng 7 năm 1968 làm tư lệnh MACV, đã chuyển NSSM 1 xuống từng cố vấn cấp cao của quân đoàn để họ trả lời (Nam Việt Nam được chia thành bốn vùng chiến thuật quân đoàn (sau này được gọi là Quân Khu), mỗi vùng có một sĩ quan cấp tướng Hoa Kỳ làm chỉ huy tác chiến của lực lượng Hoa Kỳ, đồng thời cũng là cố vấn cấp cao cho tư lệnh quân đoàn miền Nam). Các câu trả lời từ các cố vấn cấp cao của quân đoàn rất khác nhau, nhưng nhìn chung họ đều có cùng quan điểm với Trung tướng Richard G. Stilwell, Vùng Chiến thuật Quân đoàn I ở phía bắc, ông viết rằng “đã có những bước tiến đáng kể trong việc cải thiện lực lượng QĐVNCH [trong năm 1968].” Người duy nhất phản đối trong số các cố vấn cấp cao của quân đoàn là Trung tướng Walter T. Kerwin Jr., từ Vùng Chiến thuật Quân đoàn III (mười một tỉnh bao quanh Sài Gòn), ông báo cáo mình “không thấy có sự cải thiện đáng kể” nào của lực lượng Nam Việt Nam tại Quân đoàn III trong năm 1968 và chỉ đánh giá một phần ba số tiểu đoàn cơ động trong khu vực là “hiệu quả”. Bất chấp những lo ngại của Kerwin, ông và các cố vấn cấp cao khác của quân đoàn đều nhất trí về một khía cạnh: tất cả họ đều đồng ý rằng Nam Việt Nam, sau khi tăng cường đầy đủ, sẽ có thể “kiềm chế” được mối đe dọa của Việt Cộng. Kerwin, mặc dù đồng ý về nguyên tắc với các đồng nghiệp của mình, đã hạn chế sự đồng tình của mình, nói rằng ông tin cần phải tiếp tục có sự hỗ trợ của không quân và pháo binh Hoa Kỳ để quân miền Nam có thể giành chiến thắng, ngay cả trước Việt Cộng. Mặc dù các cố vấn cấp cao đồng ý rằng các lực lượng miền Nam cuối cùng sẽ có thể xử lý được cuộc nổi dậy của VC đang diễn ra, nhưng họ cũng nhất trí không tin Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH) có thể chống lại được cuộc tấn công kết hợp của VC và Bắc Việt nếu không có sự hỗ trợ và giúp đỡ liên tục của Hoa Kỳ.

Ban tham mưu của Tướng Abrams tại MACV đã tổng hợp các bình luận của các cố vấn cấp cao quân đoàn vào phản hồi của mình với tổng thống về NSSM 1. Nhiều bình luận bi quan, bao gồm cả đánh giá chỉ trích của Kerwin, đã bị bỏ qua hoặc ít nhất là bị hạ thấp trong đánh giá cuối cùng của MACV. Phần lớn báo cáo cuối cùng dựa trên việc nêu lại các chỉ số thống kê đã nộp trước đó về thành công trong việc nâng cấp lực lượng Sài Gòn. Tuy nhiên, báo cáo của MACV, trong đó nhấn mạnh đến nhu cầu tiếp tục hỗ trợ trên không và trên bộ của Hoa Kỳ cho Nam Việt Nam, không hoàn toàn lạc quan. Mặc dù báo cáo nhấn mạnh rằng đã có những tiến bộ đáng kể trong việc hiện đại hóa quân miền Nam, Abrams vẫn đồng tình với ý kiến của các cố vấn cấp cao trong quân đoàn của mình, cảnh báo rằng QLVNCH đơn giản là không có khả năng đạt được mức độ tự cung tự cấp và sức mạnh áp đảo cần thiết để chống lại cuộc nổi dậy kết hợp của Việt Cộng và các cuộc tấn công của lực lượng chủ lực Bắc Việt.”

Theo đó, Abrams nhấn mạnh rằng bất kỳ cuộc rút quân nào của Hoa Kỳ được đề xuất phải đi kèm với một cuộc rút quân tương tự của Bắc Việt. Mặc dù Abrams sẽ liên tục nhấn mạnh điểm này trong nhiều lần sau đó, nhưng cuối cùng những lời cảnh báo của ông đã bị bỏ ngoài tai khi so sánh với sự cần thiết về mặt chính trị là phải đưa quân đội Hoa Kỳ ra khỏi Nam Việt Nam, có hoặc không có sự rút quân của Bắc Việt.

Khác biệt mạnh mẽ với các khía cạnh lạc quan trong phản ứng của MACV đối với NSSM 1 là các báo cáo của Cơ quan Tình báo Trung ương, nhân viên dân sự trong Bộ Quốc phòng và ở mức độ thấp hơn là Bộ Ngoại giao. Các báo cáo của họ chỉ trích gay gắt năng lực quân sự của Sài Gòn và khẳng định rằng những cải thiện nhỏ trong QLVNCH “về cơ bản đã gây ra sự bế tắc”. Nhân viên dân sự trong Bộ Quốc phòng thậm chí đi xa hơn khi cho rằng Nam Việt Nam thậm chí không trông mong có thể kiềm chế ngay cả Việt Cộng, nói chi đến mối đe dọa kết hợp của kẻ thù, nếu không có sự hỗ trợ liên tục và đầy đủ của Hoa Kỳ. Các thành viên của nhóm này nhìn chung đồng ý rằng những thành quả bình định là “thổi phồng và bấp bênh”; rằng những người Cọng Xả đã đến Paris vì lý do chính trị và chiến lược—để cắt giảm quân phí và theo đuổi mục tiêu của họ thông qua đàm phán—chứ không phải vì họ đối mặt với thất bại trên chiến trường; và rằng một giải pháp thỏa hiệp là giải pháp duy nhất ở Việt Nam.

Do đó, tồn tại hai dự đoán trái ngược nhau hoàn toàn về tương lai lâu dài của Nam Việt Nam và lực lượng quân sự của nước này. Những gì được coi là phương tiện để làm rõ quan điểm về tình hình Việt Nam chỉ làm lu mờ quan điểm của vị tổng thống mới. Henry Kissinger đã viết, “Các câu trả lời [cho NSSM 1] đã làm rõ rằng không có sự đồng thuận về sự thật, càng không phải về chính sách.”

Nixon phải đối mặt với một tình thế tiến thoái lưỡng nan nghiêm trọng. Ông không chuẩn bị rút quân đơn phương và trao Nam Việt Nam cho những người Cọng Xả, nhưng ông cũng đã hứa sẽ chấm dứt chiến tranh và đưa quân đội về nước. Như Henry Kissinger sau đó đã nhận xét trong hồi ký của mình: “Chính quyền Nixon nhậm chức với quyết tâm chấm dứt sự can dự của chúng ta vào Việt Nam. Nhưng họ đã sớm phải đối mặt với thực tế cũng đã làm khổ người tiền nhiệm của mình. Trong gần một thế hệ, an ninh và tiến bộ của những người dân tự do đã đặt trọn vẹn lòng tin vào nước Mỹ. Chúng ta không thể đơn giản bỏ đi một sự nghiệp liên quan đến hai chính quyền, năm quốc gia đồng minh và 31.000 người đã hy sinh như thể chúng ta đang chuyển kênh truyền hình.”

Tổng thống mới phải đưa ra một chiến lược để đưa Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam, mà không “chỉ đơn giản là bỏ đi.” Sự tồn tại của Nam Việt Nam vẫn là một mục tiêu, nhưng mục tiêu chính là đưa Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam.

Nixon và các cố vấn của ông bắt đầu tập trung vào cách Hoa Kỳ có thể thoát khỏi cuộc xung đột và đồng thời mang lại cho Nam Việt Nam ít nhất một cơ hội sống sót sau khi Hoa Kỳ rời đi. Nhiệm vụ được thừa nhận là khó khăn, và thậm chí có thể là vô phương trong thời gian dài. Kissinger sau này tiết lộ quá trình suy nghĩ diễn ra trong Nhà Trắng:

Chúng tôi đã nhận ra ngay từ đầu là không chắc miền Nam có thể được tăng cường đủ để tự đứng vững trong khoảng thời gian mà sự phản đối trong nước đối với sự can dự của Hoa Kỳ cho phép. Do đó, một giải pháp đàm phán luôn được ưa chuộng hơn. Thay vì mạo hiểm nguy cơ Nam Việt Nam sụp đổ xung quanh lực lượng còn lại của chúng ta, một giải pháp hòa bình sẽ chấm dứt chiến tranh bằng một hành động chính sách và giao phó tương lai của Nam Việt Nam cho tiến trình lịch sử. Chúng ta có thể chữa lành vết thương ở đất nước này khi những người lính của chúng ta để lại hòa bình trên chiến trường và một khoảng thời gian lành mạnh để người miền Nam tự định đoạt số phận mình.

Bất chấp sự không chắc chắn liên quan đến việc cố gắng tăng cường lực lượng vũ trang Nam Việt Nam, tổng thống và các cố vấn thân cận nhất của ông, đặc biệt là Bộ trưởng Quốc phòng Melvin R. Laird và Bộ trưởng Ngoại giao William P. Rogers, nhận ra đây là phương án hành động khả thi duy nhất nếu Hoa Kỳ muốn thoát khỏi Việt Nam. Theo đó, Nixon đã ra lệnh cho các đại diện Hoa Kỳ thực hiện một “cách tiếp cận cực kỳ mạnh mẽ” để khiến Tổng thống Thiệu và chính quyền Nam Việt Nam phải chịu trách nhiệm lớn hơn cho cuộc chiến.

Điều không nói ra, nhưng vẫn rõ ràng đối với tất cả những người liên quan, là hàm ý QLVNCH sẽ chịu trách nhiệm chiến đấu lớn hơn trước khi lực lượng Hoa Kỳ rút quân, lúc này tổng cộng là 543.000 binh sĩ trong nước. Trong cuộc họp của Hội đồng An ninh Quốc gia ngày 25 tháng 1, chủ đề rút quân đã được thảo luận. Tướng Wheeler, chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân, đã nhận xét trong cuộc họp rằng việc cắt giảm một lượng nhỏ lực lượng Hoa Kỳ sẽ giúp tổng thống về mặt ngoại giao và “truyền tải hình ảnh một Nam Việt Nam tự tin”. Sau đó, Wheeler đã viết thư cho Abrams tại MACV rằng trên cơ sở cuộc họp này và các cuộc trò chuyện sau đó với Bộ trưởng Quốc phòng Laird, việc cắt giảm quân số sẽ sắp xảy ra, nhưng “cuộc thảo luận công khai về việc rút quân hoặc cắt giảm quân số tại Việt Nam nên được giới hạn trong việc rút quân chung trong bối cảnh các cuộc đàm phán Paris”; ông tiếp tục thúc giục Abrams “âm thầm kìm hãm bất kỳ cuộc thảo luận công khai nào [về việc rút quân] của các sĩ quan cấp cao của Hoa Kỳ”. Vào thời điểm này, Abrams và Đại sứ Bunker đã gặp Tổng thống Thiệu vào ngày 17 tháng 1 để thảo luận chính thức về khả năng tái triển khai quân đội Hoa Kỳ dưới thời chính quyền Nixon mới. Các bánh xe đã được truyền động để loại bỏ lực lượng Hoa Kỳ khỏi Việt Nam một lần và mãi mãi. Những gì còn lại là thiết kế một phương tiện mà theo đó Hoa Kỳ trông không có vẻ bỏ rơi miền Nam cho Cọng Xả.
 
LAIRD ĐẾN SÀI GÒN

Để hiểu rõ hơn về tình hình thực tế ở Đông Nam Á, Nixon chỉ đạo Laird đến Nam Việt Nam để đánh giá trực tiếp. Laird cùng với Tướng Wheeler, đến Sài Gòn vào ngày 5 tháng 3 năm 1969, tại đó họ được các sĩ quan cấp cao của MACV phúc trình tóm tắt. Các nhân viên MACV nhấn mạnh quan điểm rằng lực lượng vũ trang Nam Việt Nam đang có những cải thiện đáng kể. Laird tuyên bố hài lòng nhưng chỉ thị cho Tướng Abrams đẩy nhanh chương trình chuyển giao phần lớn nỗ lực chiến tranh cho lực lượng Sài Gòn. Abrams nhắc lại lời cảnh báo ban đầu của mình rằng Nam Việt Nam không thể đơn độc chống lại một mối đe dọa VC và BV kết hợp. Tuy nhiên, Laird, viện dẫn áp lực chính trị trong nước, đã chỉ đạo Abrams chuẩn bị các kế hoạch để đưa chính sách mới vào hành động “trước khi thời hạn được giao cho chính quyền mới cạn kiệt . . .”

2pZVaS8b.png

Tổng thống Nixon, trong chuyến viếng thăm bất ngờ đến Sài Gòn, ra khỏi Dinh Độc Lập cùng với Tổng thống Thiệu, lên đường đến buổi họp báo chung. Phía sau từ trái qua là Kissinger, Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ và Đại sứ Mỹ Bunker.
Bất chấp lời cảnh báo của Abrams và những khuyến nghị trái ngược của chính đội ngũ nhân viên của ông, những người đã phản ứng rất tiêu cực với NSSM 1, Laird trở về Washington với niềm tin rằng Nam Việt Nam cuối cùng có thể một mình tiếp quản toàn bộ cuộc chiến, do đó cho phép Hoa Kỳ rút quân hoàn toàn. Bộ trưởng Quốc phòng Laird, một đảng viên Cộng hòa được kính trọng đã phục vụ 17 năm tại Hạ viện, rất muốn chấm dứt chiến tranh vì ông nhận ra rằng thời gian ân hạn sau bầu cử truyền thống mà công chúng, báo chí và Quốc hội dành cho một tổng thống mới sẽ không kéo dài. Tình cảm phản chiến trên Đồi Capitol (nơi tọa lạc Quốc hội Mỹ) đang gia tăng, và Laird biết rằng Nixon sẽ phải chịu hậu quả nặng nề nếu ông không nhanh chóng chấm dứt chiến tranh. Hơn nữa, nếu chiến tranh ở Việt Nam kéo dài lâu hơn nữa, Laird lý luận rằng nó sẽ làm suy yếu sức mạnh và uy tín của Hoa Kỳ trên toàn thế giới ở những nơi quan trọng hơn nhiều đối với an ninh của Hoa Kỳ so với Đông Nam Á. Ông tin rằng bất kỳ nỗ lực nào nhằm kéo dài cuộc xung đột sẽ dẫn đến xung đột và tranh cãi có khả năng gây tổn hại nghiêm trọng đến khả năng đạt được một giải pháp danh dự của Nixon. Nhận ra rằng cuộc chiến có thể kéo dài đến tương lai gần, ông muốn chấm dứt sự tham gia của Hoa Kỳ càng sớm càng tốt. Do đó, theo Phó Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Jerry Friedheim, Laird “quan tâm nhiều hơn đến việc chấm dứt cuộc chiến ở Việt Nam hơn là giành chiến thắng”.

Vào ngày 13 tháng 3, Laird đã báo cáo những phát hiện từ chuyến đi của mình trong một bản ghi nhớ gửi cho tổng thống mới. Ông tin rằng Nixon không còn lựa chọn nào khác ngoài việc chuyển chiến tranh sang Nam Việt Nam để giải phóng lực lượng Hoa Kỳ và xoa dịu cả phong trào phản chiến đang trỗi dậy và người Mỹ chỉ muốn chiến tranh biến mất. Ông đề xuất một kế hoạch được thiết kế để lực lượng vũ trang Nam Việt Nam có khả năng đối phó không chỉ với cuộc nổi dậy VC đang diễn ra mà còn với sự hiện diện liên tục của quân Bắc Việt ở miền Nam. Ông không đồng ý với Abrams rằng việc rút quân của Hoa Kỳ phải gắn liền với việc rút quân tương ứng của Cọng Xả và lập luận rằng hỗ trợ lớn lao của Hoa Kỳ đã kìm hãm thế chủ động của Nam Việt Nam và ngăn cản họ tiếp quản nhiều hơn nỗ lực chiến tranh. Ông cảm thấy rằng “định hướng” của các chỉ huy cấp cao Hoa Kỳ tại Việt Nam dường như đặt “trọng tâm vào các hoạt động hơn là hỗ trợ Nam Việt Nam có được phương tiện tự vệ”. Laird muốn các nhà lãnh đạo quân sự cấp cao của Hoa Kỳ tại miền Nam bắt đầu chuyển trọng tâm từ việc chiến đấu sang chuẩn bị cho Nam Việt Nam tự lập. Bộ trưởng quốc phòng kết luận rằng lực lượng của Sài Gòn đang cải thiện đều đặn và đã đến lúc chuyển giao nhiều trách nhiệm hơn cho họ. Theo đó, ông đề xuất rút 50.000–70.000 quân Mỹ vào năm 1969.

Trong một cuộc họp của Hội đồng An ninh Quốc gia vào ngày 28 tháng 3, tổng thống và các cố vấn của ông đã thảo luận về các khuyến nghị của Laird. Tướng Andrew Goodpaster, khi đó là phó tướng của Tướng Abrams tại Sài Gòn, đã báo cáo với tổng thống rằng lực lượng Nam Việt Nam đã có sự cải thiện đáng kể và MACV thực tế đã gần đạt được mục tiêu “phi Mỹ hóa” cuộc chiến. Theo Henry Kissinger, Laird phản đối thuật ngữ “phi Mỹ hóa” của Goodpaster và đề xuất rằng cần có một thuật ngữ “tích cực” hơn như “Việt Nam hóa” để nhấn mạnh vào các vấn đề đúng đắn; do đó, “Việt Nam hóa” trở thành hiện thân những nỗ lực của Nixon nhằm chuyển giao chiến tranh cho miền Nam.

Sau đó, Laird mô tả mục tiêu của chương trình mới trước Ủy ban Dịch vụ Vũ trang Hạ viện là “việc QLVNCH thực sự đảm nhận một phần lớn hơn các hoạt động chiến đấu từ lực lượng Hoa Kỳ” để “lực lượng Hoa Kỳ thực sự có thể được rút đi với số lượng đáng kể”. Những tuyên bố như vậy rõ ràng nhằm mục đích bán chính sách mới cho Quốc hội và công chúng Hoa Kỳ. Alexander M. Haig, khi đó là thành viên Hội đồng An ninh Quốc gia của Nixon, sau này mô tả kế hoạch của Laird là một “cú hích thiên tài về quan hệ công chúng”, nhưng chỉ ra rằng đó là một chương trình được thiết kế để xoa dịu những người chỉ trích chiến tranh của Hoa Kỳ, không phải là chính sách bảo vệ hiệu quả cho miền Nam Việt Nam”.

Laird, người trở thành nhân vật đề xuất chính cho Việt Nam hóa, được Kissinger mô tả là “hoài nghi về tính hữu ích của các cuộc đàm phán cũng như về khả năng giành chiến thắng quân sự; và ông ấy rất nhạy bén về mặt chính trị. Mối quan tâm chính của ông ta là đưa Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam trước khi chúng ta mất quá nhiều sự ủng hộ trong nước. Nhưng ông muốn làm như vậy mà không làm sụp đổ miền Nam Việt Nam. Do đó, ông ủng hộ toàn diện cho chính sách Việt Nam hóa. Ông nói chung ủng hộ đường lối cứng rắn trong các cuộc đàm phán và tốc độ rút quân nhanh nhất có thể. Ông đã tự thuyết phục mình rằng Việt Nam hóa sẽ hiệu quả; nó trở thành ưu tiên hàng đầu của ông.”

Việc Laird kiên trì thúc đẩy Việt Nam hóa và các cuộc rút quân của Hoa Kỳ sau đó đã khiến ông xung đột với cố vấn an ninh quốc gia của tổng thống (vì những lý do sẽ được giải thích sau), nhưng vào tháng 4 1969, các khuyến nghị của Laird đã hoàn toàn thuyết phục Nixon, người sau đó đã viết, “Chính trên cơ sở sự ủng hộ nhiệt tình của Laird mà chúng tôi đã thực hiện chính sách Việt Nam hóa.” Thuyết phục tổng thống tán thành cách tiếp cận này có thể không mất nhiều thời gian. Alexander Haig khẳng định rằng Nixon đã bắt đầu nói về việc rút quân trong vòng năm ngày sau khi nhậm chức và tìm thấy câu trả lời mà ông đang tìm kiếm trong kế hoạch của Laird. Chiến lược Việt Nam hóa sẽ cho phép tổng thống khởi xướng việc giảm dần các hoạt động chiến đấu của quân đội Hoa Kỳ, với mục tiêu cuối cùng là rút quân hoàn toàn. Tuy nhiên, ông nhận ra rằng lực lượng Hoa Kỳ không thể rút quân một cách đột ngột. Mặc dù tình hình đang được cải thiện ở Nam Việt Nam, nhưng mức độ giao tranh đáng kể vẫn tiếp diễn. Do đó, lực lượng Hoa Kỳ sẽ phải duy trì các hoạt động chiến đấu để có đủ thời gian cần thiết giúp QLVNCH đủ mạnh để tiếp tục chiến đấu một mình.

Vào đầu tháng 4 năm 1969, Nixon đã đưa ra hướng dẫn lập kế hoạch cho chính sách mới trong Biên bản ghi nhớ Nghiên cứu An ninh Quốc gia 36 (NSSM 36), trong đó chỉ đạo “việc chuẩn bị một thời gian biểu cụ thể để Việt Nam hóa chiến tranh”. Lịch trình là giải quyết “mọi khía cạnh tham gia của quân đội, bán quân sự và dân sự Hoa Kỳ vào Việt Nam, bao gồm lực lượng chiến đấu và hỗ trợ chiến đấu, nhân viên cố vấn và mọi hình thức trang thiết bị”. Mục tiêu nêu trong kế hoạch được yêu cầu là “chuyển giao dần dần… nỗ lực chiến đấu” từ lực lượng Hoa Kỳ sang Quân đội Nam Việt Nam. Chỉ thị của Nixon dựa trên một số giả định. Đầu tiên, nó cho rằng do thiếu tiến triển trong các cuộc đàm phán hòa bình Paris, bất kỳ cuộc rút quân nào của Hoa Kỳ cũng sẽ là đơn phương và không đi kèm với việc cắt giảm Quân BV tương đương. Giả định này là một thay đổi đáng kể so với những giả định trước đó, vì nó có nghĩa là người miền Nam sẽ phải đối đầu với cả BV và VC. Thứ hai, người ta cho rằng lịch trình rút quân sẽ phụ thuộc vào tình hình hoạt động ở Nam Việt Nam; việc rút quân của Hoa Kỳ sẽ được biện minh trên cơ sở “cắt và thử” và Tướng Abrams sẽ phải đánh giá định kỳ về tác động của chúng trước khi tiến hành giai đoạn cắt giảm quân tiếp theo. Thứ ba, chỉ thị cho rằng lực lượng Nam Việt Nam sẽ sẵn sàng gánh vác nhiều trách nhiệm quân sự hơn cho cuộc chiến. Dựa trên ba giả định này, sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam sẽ được giảm bớt bằng cách rút quân theo từng giai đoạn cho đến khi cuối cùng chỉ còn lại một phái bộ hỗ trợ và cố vấn. Việc rút quân sẽ bắt đầu vào ngày 1 tháng 7 năm 1969.
 
Vì vậy, chính quyền Nixon, bất chấp những đánh giá từ nhiều cơ quan chính phủ cho rằng QLVNCH không bao giờ có thể chống lại mối đe dọa kết hợp giữa VC-BV, đã đưa ra một chiến lược để chuẩn bị cho Nam Việt Nam thực hiện điều đó, chỉ thị cho bộ chỉ huy Hoa Kỳ tại Việt Nam lập kế hoạch chuyển giao toàn bộ nỗ lực chiến tranh trên bộ cho Sài Gòn. Tất cả những gì còn lại để thiết lập chiến lược mới là một thông báo công khai.

Vào ngày 8 tháng 6 năm 1969, Tổng thống Nixon đã gặp tổng thống Nam Việt Nam Nguyễn Văn Thiệu tại Midway và lần đầu tiên công khai tuyên bố chính sách mới của Hoa Kỳ là “Việt Nam hóa”. Nixon tuyên bố rằng sẽ có một sự tăng cường và cải thiện ổn định các lực lượng và thể chế của Nam Việt Nam, kèm theo đó là gia tăng áp lực quân sự lên kẻ thù, trong khi quân đội Hoa Kỳ dần dần rút lui. Mục tiêu cuối cùng là tăng cường năng lực của QĐNDVN và củng cố chính quyền Thiệu để người miền Nam có thể tự mình chống lại Cọng Xả. Nixon tuyên bố rằng ông sẽ rút 25.000 quân và sau đó sẽ rút thêm theo “các khoảng thời gian đều đặn”. Theo tổng thống, việc rút quân của Hoa Kỳ phụ thuộc vào ba yếu tố: (1) tiến độ huấn luyện và trang bị cho lực lượng Nam Việt Nam, (2) tiến độ đàm phán Paris và (3) mức độ hoạt động của kẻ thù. Sau đó, Nixon tuyên bố trong hồi ký của mình rằng thông báo Midway đã khởi xướng “một quá trình không thể đảo ngược, kết thúc của quá trình này sẽ là sự ra đi của tất cả người Mỹ khỏi Việt Nam”.

Về mặt cá nhân, Tổng thống Thiệu không hài lòng với thông báo của tổng thống Hoa Kỳ. Theo Nixon, Thiệu nhận ra rằng việc Hoa Kỳ rút quân có nghĩa là gì và “rất lo lắng” về những hàm ý của việc người Mỹ rút khỏi cuộc chiến, nhưng sau này Nixon tuyên bố rằng ông đã đảm bảo riêng với Thiệu thông qua Đại sứ Ellsworth Bunker rằng “sự ủng hộ của chúng tôi dành cho ông ấy là kiên định”.

Bất chấp những lo ngại của người miền Nam về chính sách mới, Henry Kissinger đã ghi lại rằng “Nixon đã hân hoan. Ông coi thông báo [về Việt Nam hóa] là một chiến thắng chính trị. Ông nghĩ rằng nó sẽ giúp ông có thời gian cần thiết để phát triển chiến lược của chúng tôi”. Một bản ghi nhớ sau đó tiết lộ rằng Nixon hy vọng rằng chính sách mới của ông về Việt Nam hóa chiến tranh sẽ chứng minh với người dân Mỹ rằng ông “đã loại bỏ vấn đề Nam Việt Nam và thực sự có kế hoạch chấm dứt chiến tranh”.

Để củng cố chiến lược mới, Nixon đã gặp Laird và Tướng Wheeler khi ông trở về từ Midway để thảo luận về việc thay đổi nhiệm vụ chính thức cho Tướng Abrams và MACV. Tuyên bố nhiệm vụ hiện tại, do Tổng thống Johnson ban hành, là “đánh bại” kẻ thù và “buộc” kẻ thù phải rút khỏi Nam Việt Nam. Kết quả của các cuộc thảo luận sau thông báo Midway, một lệnh mới có hiệu lực vào ngày 15 tháng 8 giao cho Abrams (1) cung cấp “hỗ trợ tối đa” để tăng cường lực lượng vũ trang của Nam Việt Nam, (2) tăng cường hỗ trợ cho nỗ lực bình định, và (3) giảm dòng tiếp tế của kẻ thù trên Đường mòn Hồ Chí Minh. Với lệnh này, toàn bộ động lực của các nỗ lực của Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam đã thay đổi, như sẽ được thảo luận chi tiết sau.

Vào ngày 25 tháng 7 năm 1969, Tổng thống Nixon đã đến thăm Guam trong khuôn khổ chuyến công du Châu Á. Trong một cuộc họp báo tại đó, ông đã công bố một chính sách đối ngoại mới cho Hoa Kỳ. Ông tuyên bố rằng “đối với các vấn đề về quốc phòng quân sự, ngoại trừ mối đe dọa từ một cường quốc liên quan đến vũ khí hạt nhân, Hoa Kỳ sẽ khuyến khích và có quyền mong đợi rằng vấn đề này sẽ ngày càng được xử lý bởi, và trách nhiệm đối với nó do, các quốc gia Châu Á tự mình đảm nhận.” Chính sách mới của ông, thực chất chỉ là một ứng dụng mở rộng hơn của khái niệm Việt Nam hóa, nhanh chóng được gọi là “Học thuyết Guam”. Tuy nhiên, theo Henry Kissinger, tổng thống đã nỗ lực hết sức để báo chí mô tả nó là “Học thuyết Nixon”. Học thuyết mới của Nixon dựa trên ba nguyên tắc cơ bản: sẵn sàng đàm phán, sức mạnh quân sự và quan hệ đối tác. Ông khẳng định rằng Đông và Tây nên tìm cách chung sống với nhau và mối quan hệ giữa phương Tây và các nước Cọng Xả nên được mở ra và duy trì để đạt được một nền hòa bình lâu dài. Theo đó, Nixon tuyên bố rằng Hoa Kỳ sẽ tiếp tục tôn trọng các cam kết của mình, nhưng các đối tác của mình sẽ phải gánh vác phần trách nhiệm của họ. Như Bộ trưởng Quốc phòng Laird đã nói, “Trong khi vai trò chính của Hoa Kỳ vẫn là không thể thiếu, các quốc gia khác có thể và nên đảm nhận những trách nhiệm lớn hơn”.

Chương trình Việt Nam hóa phù hợp với Học thuyết Nixon. Theo nhà sử học Joan Hoff, học thuyết mới này nhắm vào các quốc gia thế giới thứ ba “phía nam” ở Đông Á và cung cấp “về cơ bản lý do để cắt giảm quân số, nhưng nó đã trở thành thể chế chính thức của Việt Nam hóa”.

Hoa Kỳ đã chuẩn bị cung cấp viện trợ và hỗ trợ cho Nam Việt Nam để các lực lượng miền Nam cuối cùng có thể tiếp quản cuộc chiến và quân đội Hoa Kỳ có thể rút lui. Chính quyền tin rằng việc giúp Nam Việt Nam tự đứng vững sẽ cung cấp thêm bằng chứng cho thấy Hoa Kỳ luôn tôn trọng các cam kết của mình với bạn bè và đồng minh, và có thể làm việc tốt để phát triển lòng tự tin, tự lực và hợp tác trong khu vực ngay cả sau khi quân đội Hoa Kỳ đã rút lui. Do đó, Việt Nam hóa được hình thành đã cung cấp bước đầu tiên trong việc thực hiện Học thuyết Nixon. Nixon rõ ràng cảm thấy rằng cách kết thúc chiến tranh ở Việt Nam sẽ có tác động lâu dài đến các sáng kiến chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong tương lai.

Vào ngày 30 tháng 7, trên đường trở về sau chuyến công du Châu Á, Nixon đã bất ngờ dừng chân tại Sài Gòn. Không có thông báo chính thức nào được đưa ra trước khi dừng chân, và Nixon được trực thăng đưa thẳng đến Dinh Độc Lập để gặp Thiệu. Tại đó, ông nói với tổng thống miền Nam rằng Hoa Kỳ sẽ không bỏ rơi đất nước của ông ta và việc rút quân là cần thiết để duy trì sự ủng hộ của công chúng Hoa Kỳ, đồng thời hứa rằng việc rút quân sẽ được thực hiện theo một “lịch trình có hệ thống”.

Sau khi tìm cách trấn an người miền Nam, Nixon sau đó chuẩn bị giải thích kế hoạch của mình với công chúng Mỹ. Trong bài phát biểu trên truyền hình toàn quốc vào ngày 3 tháng 11 năm 1969, Nixon đã mô tả chính sách mới của mình với người dân Mỹ. Ông nói, “Chúng ta đã thông qua một kế hoạch mà chúng ta đã xây dựng với sự hợp tác với người Nam Việt Nam để rút toàn bộ lực lượng bộ binh chiến đấu của Hoa Kỳ và thay thế bằng lực lượng Nam Việt Nam theo một thời gian biểu có trật tự. Cuộc rút quân này sẽ được thực hiện từ thế mạnh chứ không phải từ thế yếu.” Ông giải thích thêm, “Việc rút quân đột ngột toàn bộ lực lượng Hoa Kỳ khỏi Việt Nam sẽ là một thảm họa, không chỉ đối với Nam Việt Nam mà còn đối với Hoa Kỳ và mục đích hòa bình. Cuối cùng, điều này sẽ phải trả giá bằng mạng sống, điều này sẽ không mang lại hòa bình mà còn gây ra nhiều chiến tranh hơn.”

Do đó, Việt Nam hóa đã trở thành một phương cách để Nixon giảm bớt áp lực đối với chính quyền mới của mình yêu cầu rút quân hoàn toàn, tạo thêm thời gian để theo đuổi một nền hòa bình được đàm phán trong khi tiếp tục củng cố lực lượng Nam Việt Nam. Như Henry Kissinger đã mô tả, đó là “một kế hoạch chấm dứt chiến tranh” được thiết kế để cung cấp cho Hoa Kỳ “một viễn cảnh về sự rút quân danh dự mà không phải là vật thế chấp cho sự hợp tác của bên kia”.

Theo thời gian, Việt Nam hóa đã trở thành một phần của một chiến lược rộng lớn hơn mà sau này Nixon mô tả là “một phần trong kế hoạch tổng thể của ông nhằm chấm dứt chiến tranh”. Kế hoạch của Nixon bao gồm các mục tiêu sau:

  • Đảo ngược quá trình “Mỹ hóa” cuộc chiến đã diễn ra từ năm 1965 đến1968 và thay vào đó tập trung vào Việt Nam hóa.
  • Ưu tiên hơn cho việc bình định để Nam Việt Nam có thể mở rộng quyền kiểm soát của mình đối với vùng nông thôn.
  • Giảm mối đe dọa xâm lược bằng cách phá hủy các khu căn cứ địa và tuyến tiếp tế của kẻ thù ở Campuchia và Lào.
  • Rút nửa triệu quân Mỹ khỏi Việt Nam theo cách không gây ra sự sụp đổ ở miền Nam.
  • Đàm phán lệnh ngừng bắn và hiệp ước hòa bình.
  • Thể hiện thiện chí và quyết tâm sát cánh cùng đồng minh của chúng ta nếu hiệp định hòa bình bị Hà Nội vi phạm, và đảm bảo với Nam Việt Nam rằng họ sẽ tiếp tục nhận được viện trợ quân sự của chúng ta như Hà Nội đã nhận được từ các đồng minh của mình, Liên Xô và, ở mức độ thấp hơn, Trung Quốc.
Nixon và các cố vấn của ông lạc quan nhận thấy rằng Việt Nam hóa có thể mang lại lợi ích bổ sung là kết thúc chiến tranh nhanh hơn. Bên cạnh việc tăng cường lực lượng của Thiệu để họ có thể đảm nhận nhiều trách nhiệm hơn đối với cuộc chiến, chính sách này cũng có thể khuyến khích Bắc Việt dễ tiếp nhận hơn đối với một nền hòa bình được đàm phán. Theo Nixon, “Nếu kẻ thù cảm thấy rằng chúng ta sẽ ở lại đó đủ lâu để miền Nam đủ mạnh có thể tự bảo vệ mình, thì tôi nghĩ họ có động lực thực sự để đàm phán, bởi vì nếu họ phải đàm phán với một chính phủ Nam Việt Nam mạnh mẽ, năng nổ, thì thỏa thuận mà họ đạt được với miền Nam sẽ không tốt bằng thỏa thuận mà họ có thể đạt được hiện nay”.

Sự ủng hộ của công chúng đối với Việt Nam hóa ban đầu là cực kỳ tích cực. Nhiều người Mỹ phản ứng rất tích cực với chính sách mới, hy vọng rằng việc rút quân ban đầu của 25.000 quân là bước mở đầu cho việc rút quân hoàn toàn của tất cả các lực lượng Hoa Kỳ khỏi Nam Việt Nam. Nhiều người trong báo chí Mỹ cũng đã được khuyến khích bởi sự thay đổi chiến lược của Nixon, và trong khi một số chuyên mục như Rowland Evans và Robert Novak lo ngại về khả năng của Nam Việt Nam trong việc tiếp quản nỗ lực chiến tranh, thì các báo cáo và bình luận của phương tiện truyền thông trước và ngay sau thông báo về chiến lược mới của Nixon nói chung là có lợi. Sự ủng hộ như vậy sẽ không kéo dài.

TIỀN THÂN CỦA VIỆC VIỆT NAM HÓA

Bất chấp lời lẽ ngược lại của Nixon, cái mà ông gọi là “Việt Nam hóa” không phải là một ý tưởng hoàn toàn mới. Lần đầu tiên nó được thảo luận vào năm 1967 sau gần ba năm Hoa Kỳ tham gia chiến đấu toàn diện ở Nam Việt Nam. Tướng Westmoreland, khi đó là chỉ huy MACV, đã phát biểu vào tháng 11 năm 1967 trong một bài nói chuyện tại Câu lạc bộ Báo chí Quốc gia về việc dần dần chuyển giao cuộc chiến cho Nam Việt Nam. Ông cho biết vào năm 1968, Hoa Kỳ sẽ thực hiện “Giai đoạn III” của chiến lược chiến tranh, bao gồm việc nâng cấp lực lượng Địa phương quán và Dân quân, cung cấp cho QĐVNCH các thiết bị mới để sẵn sàng “tiếp quản phần vụ ngày càng tăng của cuộc chiến” và chuyển giao “một phần lớn” tuyến phòng thủ tiền tuyến DMZ (Khu Phi Quân sự) cho các lực lượng Nam Việt Nam. Ông nói thêm rằng trong “Giai đoạn IV”, các lực lượng Hoa Kỳ có thể “bắt đầu giảm dần” khi quân miền Nam phát triển năng lực của mình và bắt đầu “chịu trách nhiệm rốt ráo về hoạt động càn quét Việt Cộng” và “cho thấy rằng họ có thể xử lý được Việt Cộng”.

Mục tiêu của kế hoạch này là nâng cấp các lực lượng Nam Việt Nam để họ có thể xử lý cuộc nổi dậy liên tục của Việt Cộng sau khi các lực lượng Hoa Kỳ rời đi. Tuy nhiên, kế hoạch không nghĩ đến việc các lực lượng vũ trang Nam Việt Nam sẽ có thể đối phó với quân đội chính quy Bắc Việt.

Các biện pháp theo kế hoạch này đã được khởi xướng khi Nixon nhậm chức. Vì vậy, vào thời điểm Nixon, Laird và Kissinger xây dựng chiến lược mới của họ để chấm dứt chiến tranh, các thành phần chiến lược đã có sẵn và quá trình này đang diễn ra. Cựu tướng lĩnh VNCH Nguyễn Duy Hinh đã cho rằng sự phát triển đáng kể của QLVNCH trong năm trước khi Nixon nhậm chức có thể là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến suy nghĩ của tổng thống mới khi ông cân nhắc các cách chấm dứt chiến tranh cho người Mỹ.

Tuy nhiên, có một sự khác biệt chính giữa các kế hoạch mà Westmoreland khởi xướng và các kế hoạch do Nixon ra lệnh: theo kế hoạch của Nixon và Laird, người miền Nam sẽ được kỳ vọng chiến đấu với cả Việt Cộng và Quân Bắc Việt sau khi quân đội Hoa Kỳ rút lui. Sự khác biệt sẽ chứng minh là quan trọng trong giai đoạn giữa thời điểm khởi xướng chính sách và thất bại cuối cùng của Nam Việt Nam vào năm 1975.
 
Lão Kỳ chỉ ăn chơi bay nhảy gái gú chứ đánh đấm chẳng ăn thua.
 
Ngày trước ngoại tao là sĩ quan , tụi mỹ kêu đi qua Mỹ ổng k chịu đi , vì tụi Mỹ phản bội . Chứ không giờ tao có qt đại bèng r :pudency:
Hêhheheeh số mà bạn, ông tao đóng quân ở phi trường Cam Ranh nhưng bà tao và các con ở tận SG nên ko nỡ bỏ…
 
 
tóm tắt cho ai ngại đọc, đặc biệt là phe thắng cuộc:
Mỹ bỏ rơi miền Nam Vn nó Mỹ biết ko thể nào đánh bại đc cộng sả n Bắc việt và Mặt trận giải phóng miền Nam Vn.
QNWDdXr.gif
 
Tao, má tao, ông ngoại tao nữa là -4 Cali. Cả 3 đều có suất đi nhưng do má tao mê +S là ông già tao nên ở lại. Nên đến ngày ra phi trường chỉ có bà ngoại, cậu & dì. Ông ngoại tao thấy má tao ở lại 1 mình thì thương nên cũng ko đi. Đm đời
Dồy sao đếu làm hs bão lãnh
 
Tao, má tao, ông ngoại tao nữa là -4 Cali. Cả 3 đều có suất đi nhưng do má tao mê +S là ông già tao nên ở lại. Nên đến ngày ra phi trường chỉ có bà ngoại, cậu & dì. Ông ngoại tao thấy má tao ở lại 1 mình thì thương nên cũng ko đi. Đm đời
Tau bỏ lỡ 2 lần dồy, nhên nần lài phãi dọt thôy
 
Tao, má tao, ông ngoại tao nữa là -4 Cali. Cả 3 đều có suất đi nhưng do má tao mê +S là ông già tao nên ở lại. Nên đến ngày ra phi trường chỉ có bà ngoại, cậu & dì. Ông ngoại tao thấy má tao ở lại 1 mình thì thương nên cũng ko đi. Đm đời
Ở lại tận hưởng thiên đường đất việt thôi.Số mày đã vậy rồi
 
Có suất ko đi thì hỏi sao ko bảo lãnh. Tao hết cơ hội rồi. Vì bà ngoại tao hồi hương & nằm lại vĩnh viễn ở quê hương theo ý nguyện rồi :beat_brick:
Uh thôi mỗi ngưởi mỗi cảnh, Mẽo nó phải trực hệ mới bão lãnh được, tau chỉ bỏ lỡ 2 lần trước nên giờ đợi vl
 

Có thể bạn quan tâm

Top