
James H. Willbanks
1. Việt Nam hóa
Năm Mậu Thân, 1968, đã chứng minh là thời điểm then chốt của Chiến tranh Việt Nam. Trong thời gian hưu chiến Tết năm đó, Quân đội Bắc Việt và lực lượng Việt Cộng (VC) đã phát động một cuộc tấn công quy mô lớn trên khắp miền Nam Việt Nam. Bắt đầu từ những ngày cuối tháng 1, họ đã tấn công hoặc pháo kích 36 trong số 44 tỉnh lỵ, 5 trong số 6 thành phố tự trị và 64 trong số 242 thị trấn huyện lỵ ở Việt Nam Cộng hòa. Tầm vóc và mức độ dữ dội của các cuộc tấn công này đã gây sốc cho công chúng Hoa Kỳ; trước đó, họ đã được các nhà lãnh đạo quân sự và chính trị Hoa Kỳ dẫn dắt để tin rằng tình thế đã thay đổi trong cuộc đấu tranh chống lại người Cọng Xả ở Việt Nam.
Dù người Cọng Xả có lợi thế là yếu tố bất ngờ, các lực lượng Hoa Kỳ và miền Nam đã phản ứng nhanh chóng với mối đe dọa mới, đẩy lùi kẻ thù và giành lại quyền kiểm soát tình hình ở hầu hết các khu vực. Chỉ ở Sài Gòn và kinh đô Huế, cuộc giao tranh thực sự mới kéo dài hơn một tuần. Cuối cùng, cuộc tấn công đã dẫn đến thất bại quân sự cho lực lượng Cọng Xả, họ đã phải trả giá đắt cho những thắng lợi ban đầu của mình. Theo ước tính, số thương vong của VC và Bắc Việt là từ 32.000 đến 58.000 người. Mặc dù con số thương vong thực tế có thể còn gây tranh cãi, nhưng hầu hết các nhà chức trách đều đồng ý rằng Việt Cộng đã phải chịu tổn thất rất nhiều trong cuộc giao tranh Tết và không còn là mối đe dọa quân sự đáng kể trong suốt thời gian còn lại của cuộc chiến. Tuy nhiên, ở cấp độ chiến lược, cuộc tấn công đã chứng tỏ là một chiến thắng về mặt tâm lý cho lực lượng Cọng Xả. Tổng thống Lyndon B. Johnson đã bị chấn động bởi cường độ và quy mô của cuộc tấn công của kẻ thù. Khi Tướng William C. Westmoreland, chỉ huy quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam, yêu cầu gửi thêm 206.000 quân, nhiều người Mỹ có ảnh hưởng, cả trong và ngoài chính quyền Hoa Kỳ, bao gồm nhiều người trước đây đã ủng hộ nỗ lực chiến tranh, bắt đầu đặt câu hỏi về sự tham gia liên tục của Hoa Kỳ vào cuộc chiến tranh Đông Nam Á mà giờ đây có vẻ như không thể nào thắng được. Phong trào phản chiến đã có thêm sức mạnh mới. Vào ngày 31 tháng 3, một tổng thống buồn bã tuyên bố ông sẽ không ra tái tranh cử chức tổng thống. Johnson đã ra lệnh Hoa Kỳ dừng ném bom miền Bắc phía trên vĩ tuyến 20 và đồng thời đề xuất đàm phán hòa bình với Cọng Xả. Nói rằng mình đang phát động một “cuộc tấn công hòa bình”, Johnson đã cử cựu đại sứ Averell Harriman đến Paris để bắt đầu đàm phán với Bắc Việt. Điều này báo trước một sự thay đổi sâu sắc trong cả thái độ của người Mỹ đối với cuộc chiến và chiến lược chính thức của Hoa Kỳ. Rõ ràng là không có “ánh sáng cuối đường hầm” và nhiều người Mỹ đã đi đến kết luận rằng đã đến lúc chấm dứt chiến tranh ở miền Nam bằng cách này hay cách khác.
NIXON TRÊN LỘ TRÌNH CHIẾN DỊCH
Trong khi Johnson đang cố gắng giải quyết hậu quả của cuộc tấn công Tết Mậu Thân, Richard M. Nixon đang vận động tranh cử mạnh mẽ cho chức vụ mà tổng thống đương nhiệm Johnson sẽ sớm rời bỏ. Nixon đã đưa cuộc chiến tranh ở Việt Nam trở thành một yếu tố chính trong cương lĩnh của mình cho cuộc tranh cử tổng thống năm 1968. Vào ngày 5 tháng 3, trong một bài phát biểu tại Hội trường Cựu chiến binh Hoa Kỳ ở Hampton, New Hampshire, Nixon đã nói, “Tôi cam kết với các bạn một ban lãnh đạo mới sẽ chấm dứt chiến tranh và giành được hòa bình ở Thái Bình Dương.” Bất chấp những.lời phản đối sau đó của ông, ứng cử viên Nixon đã tạo cho nhiều cử tri ấn tượng rằng mình có một “kế hoạch bí mật” để chấm dứt chiến tranh.
Trong một tuyên bố trên đài phát thanh vào ngày 8 tháng 3, ông nói, “Điều cần thiết là chúng ta phải chấm dứt cuộc chiến này và chấm dứt nó một cách nhanh chóng… nhưng điều cần thiết là chúng ta phải chấm dứt nó theo cách mà chúng ta có thể giành được hòa bình.” Vận động tranh cử tại Wisconsin vào cuối tháng đó, ông đã làm rõ lập trường của mình, tuyên bố, “Mục tiêu của quốc gia là giúp người Nam Việt Nam chiến đấu trong cuộc chiến chứ không phải chiến đấu cho họ. . . . Nếu họ không gánh vác phần lớn gánh nặng trong việc tự vệ, họ sẽ không được cứu giúp.”
Trong nỗ lực tìm ra phương tiện để chấm dứt chiến tranh, Nixon đã phải đối mặt với những vấn đề tương tự mà Lyndon Johnson đã phải đối mặt. Việc leo thang và cam kết tăng cường số lượng quân nhân Hoa Kỳ đã không hiệu quả; cuộc tấn công Tết Mậu Thân năm 1968 đã chứng minh thực tế đó quá rõ ràng. Bế tắc là không thể chấp nhận được vì công chúng Hoa Kỳ ngày càng bất ổn sẽ không còn chịu đựng được một cam kết lâu dài cho một cuộc chiến không thể thắng được. Câu trả lời là rút khỏi Việt Nam, nhưng câu hỏi—một câu hỏi chính trị—là làm thế nào để thực hiện điều đó một cách khéo léo mà không bỏ rơi Việt Nam vào tay Cọng Xả. Nixon đã đấu tranh riêng tư với vấn đề này, duy trì thái độ tương đối kín đáo trước công chúng về vấn đề Việt Nam sau thông báo ngày 31 tháng 3 của Johnson rằng ông sẽ không tái tranh cử.
Nixon nói với tờ New York Times rằng ông sẽ không chỉ trích Johnson để xem “cuộc tấn công hòa bình” của tổng thống có thể thu hút được gì từ Bắc Việt.
Vào ngày 26 tháng 7, Nixon bay đến Washington theo yêu cầu của Tổng thống Johnson để được nghe tóm tắt về Việt Nam từ Bộ trưởng Ngoại giao Dean Rusk và Cố vấn An ninh Quốc gia Walt W. Rostow. Sau các cuộc họp tóm tắt, Johnson giải thích với Nixon về những gì ông đang cố gắng thực hiện trong các cuộc đàm phán với Bắc Việt; tổng thống cay đắng vì người Cọng Xả đã không phản ứng tích cực hơn với lời đề nghị hòa bình của ông. Rusk cảnh báo Nixon rằng theo ý kiến của ông, “hoảng loạn” sẽ xảy ra trên khắp Châu Á nếu Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam mà không có một giải pháp hòa bình “danh dự”. Nixon nói rằng ông sẽ tiếp tục ủng hộ các mục tiêu của Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam và “cam kết không làm suy yếu vị thế đàm phán của Johnson trong trường hợp Cọng Xả thay đổi. . . .”
Vào ngày 3 tháng 8 năm 1968, Nixon tiết lộ thêm về suy nghĩ của riêng mình về cách giải quyết câu đố Việt Nam khi ông gửi ý tưởng của mình về việc chấm dứt chiến tranh đến cuộc họp ủy ban quốc gia đảng Cộng Hòa tại Đại hội toàn quốc của Đảng Cộng hòa ở Miami. Ông viết rằng “cuộc chiến phải được chấm dứt . . . ,” nhưng cảnh báo “phải kết thúc một cách danh dự, phù hợp với các mục tiêu hạn chế của Hoa Kỳ và với các yêu cầu lâu dài về hòa bình ở Châu Á.” Sau đó, lần đầu tiên, ông trở nên cụ thể hơn về cách đạt được nền hòa bình này trong danh dự. Ông ủng hộ việc tiếp tục tiến hành chiến tranh cho đến khi kẻ thù đồng ý ký kết một nền hòa bình danh dự, đồng thời cải thiện vũ khí và huấn luyện cho QĐVNCH. Nixon sau đó đã mô tả suy nghĩ của mình vào thời điểm đó: “Khi họ [lực lượng Nam Việt Nam] được đưa vào, quân đội Hoa Kỳ có thể—và nên được—loại bỏ dần. Việc loại bỏ dần này sẽ cứu sống người Mỹ và cắt giảm chi phí của Hoa Kỳ.”
Vào ngày 7 tháng 8 tại Đại hội toàn quốc của Đảng Cộng hòa, Nixon chính thức nhận được đề cử của đảng mình cho chức tổng thống. Đối thủ Dân chủ của ông là Phó Tổng thống Hubert H. Humphrey của Minnesota. Trong chiến dịch bầu cử sau đó, Humphrey, theo nhà viết tiểu sử của Nixon là Stephen E. Ambrose, đã “bị mắc kẹt” vì ông không thể tách khỏi Johnson về vấn đề Việt Nam, và do đó ông không thể có cách tiếp cận “ôn hòa” hơn đối với cuộc chiến, điều này sẽ giúp cử tri có sự lựa chọn rõ ràng giữa ông và Nixon. Nixon đã chỉ thị cho các nhà tư tưởng và cây bút cốt cán “đặt con khỉ Việt Nam lên lưng Humphrey, chứ không phải Johnson.” Đồng thời, ông tránh đưa ra bất kỳ bình luận thực chất nào về cách chấm dứt chiến tranh, khiến Humphrey khó có thể tấn công ông về các chi tiết cụ thể. Đó là một động thái chính trị tài tình, và Humphrey nhanh chóng trở thành mục tiêu của tất cả những ai ghét chính quyền Johnson và việc chính quyền này tiếp tục chiến tranh và/hoặc không thể giành chiến thắng. Cuộc chiến là một vấn đề nóng hổi của chiến dịch, như đã được chứng minh bằng đại hội đảng Dân chủ thảm khốc ở Chicago dẫn đến bạo loạn trên đường phố.

Bộ trưởng Quốc phòng Laid và Đại sứ Mỹ Bunker đến gặp Thiệu vào tháng 3, 1969
Nixon biết rằng Tổng thống Johnson đang chuẩn bị công bố một lệnh tạm dừng ném bom mới. Nhận ra rằng lệnh tạm dừng sẽ là một lợi ích cho Humphrey, ông đã ra một tuyên bố dứt khoát rằng ông sẽ ủng hộ lệnh tạm dừng ném bom và hứa sẽ “không chơi trò chính trị với cuộc chiến này.” Lời hứa của ông là rỗng tuếch, vì cả hai bên đều đã “chơi trò chính trị” với cuộc chiến kể từ khi bắt đầu cuộc xung đột. Nixon đã cố gắng làm giảm bớt một số tác động của tuyên bố của Johnson, nhưng việc ngừng ném bom vẫn dẫn đến sự gia tăng ủng hộ đối với Humphrey và đảng Dân chủ. Tuy nhiên, sự gia tăng này không kéo dài được lâu, vì vào ngày 2 tháng 11, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu của Nam Việt Nam tuyên bố rằng chính phủ của ông sẽ không tham gia vào các cuộc đàm phán hòa bình Paris. Tuyên bố của ông thực sự đã làm suy yếu sáng kiến hòa bình của Johnson và bất kỳ khoản lợi nhuận chính trị tiềm năng nào cho Hubert Humphrey và đảng Dân chủ.
NIXON CHIẾN THẮNG
Vào ngày 5 tháng 11, bất chấp một loạt hoạt động vào phút chót của đảng Dân chủ, Nixon đã giành được 43,4 phần trăm số phiếu phổ thông so với 42,7 phần trăm của Humphrey, và giành được 301 phiếu đại cử tri so với 191 phiếu của đối thủ. Vấn đề của Johnson giờ là của Nixon,và sau khi giành được chiến thắng hứa hẹn sẽ chấm dứt chiến tranh, tổng thống đắc cử phải thực hiện lời hứa đó và tạo ra một kế hoạch khả thi để đạt được hứa hẹn “hòa bình trong danh dự”. Nhà sử học George C. Herring cho rằng Nixon rõ ràng nhận thức được rằng tương lai chính trị và vị thế của ông trong lịch sử sẽ được xác định bởi khả năng giải thoát đất nước khỏi vũng lầy Việt Nam của ông. Nixon nói với một trong những cố vấn của mình, “Tôi sẽ không kết thúc như LBJ, ẩn náu trong Nhà Trắng và sợ phải lộ mặt trên phố. Tôi sẽ chấm dứt cuộc chiến đó. Nhanh chóng.”
Cuối cùng, ông thấy đó không phải là một nhiệm vụ dễ dàng. Vào ngày 11 tháng 11, Nixon đã đến Nhà Trắng để tham dự một phúc trình về chính sách đối ngoại từ Johnson và các cố vấn của ông ta. Chủ đề chính là chiến tranh Việt Nam. Nixon đã được Bộ trưởng Ngoại giao Rusk, Bộ trưởng Quốc phòng Clark M. Clifford, Cố vấn An ninh Quốc gia Rostow, Giám đốc Cơ quan Tình báo Trung ương Richard M. Helms và Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Earle G. Wheeler phúc trình ngắn gọn. Theo Nixon, “Tất cả họ đều nhấn mạnh rằng Hoa Kỳ phải đưa cuộc chiến tranh đi đến hồi kết thành công — bằng các cuộc đàm phán nếu có thể, nhưng tiếp tục chiến đấu nếu cần thiết”. Những người phúc trình cũng cảnh báo rằng “một cuộc rút quân của người Mỹ, hoặc một giải pháp đàm phán có thể được hiểu là một thất bại, sẽ gây ra tác động tàn khốc” đối với các đồng minh và bạn bè của Hoa Kỳ ở Châu Á và trên toàn thế giới.
Clifford đã đưa ra cho tổng thống đắc cử ba phương án để cân nhắc khi ông chuẩn bị nhậm chức: Nixon có thể tiếp tục chiến đấu mà không theo đuổi các cuộc đàm phán; ông có thể tổ chức các cuộc đàm phán đơn phương riêng tư với Hà Nội; hoặc ông có thể gây sức ép buộc Thiệu đến Paris để tham gia các cuộc đàm phán.
Clifford đề xuất phương án cuối cùng, nói rằng Tổng thống Johnson có thể giúp chuẩn bị bối cảnh cho cách tiếp cận này bằng cách thông báo cho Thiệu rằng các cuộc đàm phán sẽ tiếp tục, có hoặc không có ông ta. Clifford nghĩ rằng tổng thống Nam Việt Nam sẽ bị buộc phải tham gia. Đồng thời, Clifford nói, Johnson nên thực hiện các biện pháp để giảm mức độ giao tranh và bắt đầu rút quân khi ông chuẩn bị rời nhiệm sở. Clifford cảm thấy rằng một hướng đi như vậy sẽ là “một bước tiến lớn để chấm dứt chiến tranh” và Nixon có thể “dọn dẹp các chi tiết” sau khi nhậm chức.
Bất chấp các khuyến nghị của Clifford, Nixon sau đó đã viết trong hồi ký của mình rằng Johnson và các cố vấn của ông “không có cách tiếp cận mới nào để đề xuất với tôi”. Tuy nhiên, sau cuộc họp, ông nói với báo chí rằng ông sẽ hoàn toàn ủng hộ các chính sách của tổng thống sắp mãn nhiệm và chính quyền Johnson sẽ phát biểu thay mặt cho chính quyền mới của ông trong hai tháng tiếp theo cho đến khi ông nhậm chức; ông cho biết ông hy vọng rằng chính sách một tiếng nói sẽ dẫn đến “một số hành động và tiến bộ rất quan trọng hướng tới hòa bình”.
Vào ngày 25 tháng 11, Nixon đã gặp giáo sư Henry Kissinger của Harvard tại văn phòng chuyển giao Nhà Trắng tại Khách sạn Pierre ở New York. Tổng thống đắc cử đã thảo luận các ý tưởng về chính sách đối ngoại với người mà ông đang cân nhắc cho chức vụ cố vấn an ninh quốc gia, nói về NATO, Liên Xô, Trung Quốc, và Trung Đông. Khi họ nói đến chủ đề Việt Nam, cả hai đều đồng ý rằng họ cần phải suy nghĩ lại toàn bộ chính sách ngoại giao và quân sự đối với Việt Nam để “tránh cái bẫy mà Johnson đã rơi vào” là chỉ dành cho một quốc gia hầu như toàn bộ thời gian và năng lượng cho chính sách đối ngoại của tổng thống. Đối với cả hai nhân vật chiến tranh ở Việt Nam là một phần của vấn đề lớn hơn nhiều về an ninh và ảnh hưởng của Mỹ trên toàn thế giới. Nixon nhớ lại rằng ông cảm thấy “một trực giác mạnh mẽ về Henry Kissinger, và tôi đã quyết định ngay tại chỗ rằng ông ấy nên là Cố vấn An ninh Quốc gia của tôi”. Hai ngày sau, Nixon đề nghị Kissinger đảm nhiệm vị trí này và Kissinger đã chấp nhận. Liên minh giữa Nixon và cố vấn an ninh quốc gia mới của mình sẽ có tác động to lớn đến việc tiến hành chiến tranh ở Việt Nam và cuối cùng là đến sự tồn tại liên tục của Nam Việt Nam như một quốc gia có chủ quyền.
Vào ngày 12 tháng 12, Nixon đã gặp lại Tổng thống Johnson tại Nhà Trắng để thảo luận về tình hình ở Việt Nam, và một lần nữa Johnson đã thúc giục Nixon tiếp tục theo đuổi con đường này. Tổng thống đắc cử đã hứa rằng ông sẽ làm như vậy và hứa thêm rằng mình sẽ đảm bảo Johnson sẽ nhận được sự tín nhiệm mà mình xứng đáng khi chiến tranh kết thúc thành công.
Cuối tháng đó, Nixon và cố vấn an ninh quốc gia mới của ông đã có lời đề nghị đầu tiên với các nhà đàm phán Bắc Việt tại Paris. Sử dụng doanh nhân người Pháp Jean Sainteny làm trung gian, Nixon và Kissinger đã gửi cho Bắc Việt một thông điệp rằng tổng thống mới quan tâm đến việc kết thúc chiến tranh bằng đàm phán. Bắc Việt trả lời rằng rào cản chính đối với các cuộc đàm phán có ý nghĩa là việc Hoa Kỳ tiếp tục ủng hộ chính quyền Thiệu và những “yêu cầu vô lý” của họ. Nixon, “không ngạc nhiên cũng không nản lòng” trước khởi đầu không mấy tốt đẹp cho chính quyền mới, sau đó đã mô tả quan điểm của mình về Việt Nam khi ông chuẩn bị chuyển vào Nhà Trắng: “Tôi bắt đầu nhiệm kỳ tổng thống của mình với ba tiền đề cơ bản liên quan đến Việt Nam. Đầu tiên, tôi sẽ phải chuẩn bị dư luận cho thực tế rằng chiến thắng quân sự toàn diện không còn khả thi nữa. Thứ hai, tôi sẽ phải hành động theo những gì lương tâm, kinh nghiệm và phân tích của tôi mách bảo là đúng về việc cần phải giữ lại cam kết của chúng ta. Việc từ bỏ miền Nam Việt Nam cho Cọng Xả bây giờ sẽ khiến chúng ta phải trả giá vô cùng đắt trong hành trình tìm kiếm một nền hòa bình ổn định, có cấu trúc và lâu dài. Thứ ba, tôi sẽ phải kết thúc chiến tranh càng nhanh càng tốt.
Ông cũng tuyên bố rằng ông đã loại trừ một chiến thắng quân sự nhanh chóng và “đã chuẩn bị dành phần lớn năm đầu tiên tại nhiệm để đi đến một thỏa thuận đàm phán” nhằm bảo vệ nền độc lập của Nam Việt Nam. Vị tổng thống mới không nhận ra rằng việc đạt được thỏa thuận với Bắc Việt sẽ mất thêm ba năm nữa và thêm 20.552 sinh mạng người Mỹ.
NIXON NHẬN NHIỆM VỤ
Vào ngày 20 tháng 1 năm 1969, Richard Milhous Nixon đã tuyên thệ nhậm chức tổng thống thứ 37 của Hoa Kỳ. Trong bài phát biểu nhậm chức của mình, ông đã nhắc lại mong muốn đạt được một giải pháp hòa bình tại Việt Nam, nhưng cũng nêu rõ quyết tâm đưa cuộc chiến này đến hồi kết trong danh dự. Nixon đã cảnh báo rằng “Đối với tất cả những ai bị cám dỗ bởi sự yếu đuối, chúng ta hãy chắc chắn rằng chúng ta sẽ cần phải mạnh mẽ khi cần thiết”.
Vào ngày đầu tiên nhậm chức, Nixon đã bắt tay vào công việc. Ông đã ban hành Bản ghi nhớ Nghiên cứu An ninh Quốc gia 1 (NSSM 1), có tiêu đề “Tình hình tại Việt Nam”. Tài liệu dài 6 trang, cách đơn, được gửi đến các thành viên được chọn của chính quyền mới, yêu cầu trả lời 29 câu hỏi chính và 50 câu hỏi phụ về tình hình ở Đông Nam Á. Trong số những người nhận được bản ghi nhớ có Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, Cơ quan Tình báo Trung ương, Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân, Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Sài Gòn và Bộ Tư lệnh Hỗ trợ Quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (MACV), cũng ở Sài Gòn. Các câu hỏi bao gồm sáu loại chính: các cuộc đàm phán (câu hỏi 1–4), tình hình của kẻ thù (5–10), tình trạng của các lực lượng vũ trang Nam Việt Nam (11–13), tình trạng của nỗ lực bình định (14–20), tình hình chính trị ở Nam Việt Nam (21–23) và các mục tiêu của Hoa Kỳ (24–29).
NSSM 1 là nỗ lực của Nixon nhằm đưa ra một số chiến lược khả thi bằng cách tìm kiếm các quan điểm khác nhau sẽ đưa ra ước tính toàn diện về tình hình ở Nam Việt Nam. Theo Henry Kissinger, bản ghi nhớ được thiết kế “để làm sâu sắc thêm bất kỳ sự bất đồng nào để chúng ta có thể xác định rõ các câu hỏi gây tranh cãi và các quan điểm khác nhau.” Trọng tâm của các câu hỏi chỉ ra một số mối quan tâm chính của tổng thống mới: khả năng tồn tại của chính quyền Thiệu và khả năng của Nam Việt Nam trong việc tiếp tục cuộc chiến sau bất kỳ cuộc rút quân nào của Hoa Kỳ. Nguồn gốc của những mối quan tâm này là một đánh giá tình báo mà Nixon đã đọc vào tháng 12 trước khi nhậm chức; trong báo cáo này, CIA đã chỉ trích rất nhiều chính quyền Thiệu và khả năng của lực lượng vũ trang Nam Việt Nam.