Có Hình ⚡️ 50 năm thống nhất đất Nước | Cách Mỹ Đế đã bỏ rơi Miền Nam Việt Nam by James H. Willbanks!✍️ (P2)

YPOZ3FOP.png

James H. Willbanks

2. Thi hành Chiến lược Mới

CHIẾN LƯỢC MỚI

Là người được giao nhiệm vụ thực hiện chiến lược mới của Nixon, Tướng Creighton Abrams, chỉ huy Bộ Tư lệnh Hỗ trợ Quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam, đã được giao việc mà Henry Kissinger gọi là “một trong những nhiệm vụ bạc bẽo nhất từng được giao cho một vị tướng Hoa Kỳ”, đó là giải tán một lực lượng hơn nửa triệu người trong khi vẫn duy trì an ninh và huấn luyện một đội quân khác để tiếp quản. Kissinger mô tả tình hình mà Abrams phải đối mặt: “Thật đau lòng khi thấy Tướng Abrams, hình mẫu của một chỉ huy chiến đấu, rõ ràng là không vui, nhưng vẫn tuân lệnh rút 25.000 quân tác chiến. Khi đó, ông biết rằng mình sẽ phải cam chịu chỉ huy một đạo quân tập hậu, rằng lệnh của mình sẽ ngày càng nhắm đến mục tiêu tái triển khai hậu cần chứ không phải tìm kiếm thắng lợi trong trận chiến. Ông không thể đạt được chiến thắng vốn từng lẩn tránh chúng ta ngay những khi có đầy đủ quân số trong khi giờ đây lực lượng chúng ta lại liên tục sút giảm. Chúng ta chỉ còn phải bán đề xuất này cho Tổng thống Thiệu.” Bất chấp những khó khăn và nguy hiểm tiềm tàng, Abrams đã chấp nhận quân lệnh của mình và bắt đầu rút quân Mỹ và Việt Nam hóa chiến tranh.

Chương trình Việt Nam hóa sẽ được thực hiện theo ba giai đoạn. Trong giai đoạn đầu tiên, trách nhiệm về phần lớn giao tranh trên bộ chống lại Việt Cộng và các lực lượng Bắc Việt sẽ được chuyển dần cho QLVNCH. Trong giai đoạn này, Hoa Kỳ sẽ tiếp tục cung cấp hỗ trợ không quân, hải quân và hậu cần. Giai đoạn thứ hai, phát triển năng lực tự lực cánh sinh của QLVNCH, bao gồm việc tăng cường các lực lượng pháo binh, không quân và hải quân, cũng như cung cấp các hoạt động hỗ trợ khác. Được thiết kế để tiến hành đồng thời với giai đoạn đầu tiên, giai đoạn thứ hai sẽ cần nhiều thời gian hơn. Ngay cả sau khi phần lớn lực lượng tác chiến của mình đã rút lui, Hoa Kỳ vẫn cung cấp hỗ trợ, an ninh và đào tạo nhân sự. Giai đoạn thứ ba bao gồm việc cắt giảm sự hiện diện của Hoa Kỳ xuống chỉ còn giữ vai trò cố vấn quân sự nghiêm ngặt, với một yếu tố an ninh nhỏ vẫn còn để bảo vệ. Nỗ lực cố vấn sẽ dần dần giảm thiểu khi miền Nam phát triển mạnh mẽ cho đến khi sự hiện diện như trước đây của quân đội Hoa Kỳ không còn cần thiết nữa.
Thời gian biểu để hoàn thành mỗi giai đoạn là không giới hạn và không có ngày nào được ấn định cho việc rút toàn bộ lực lượng Hoa Kỳ. Tổng thống cảm thấy rằng việc đặt ra một hạn cuối như vậy sẽ giúp Cọng Xả loại bỏ động lực đàm phán; với việc ấn định thời hạn chót, Washington sẽ mất đi một công cụ mặc cả—mối đe dọa liên tục về sự hiện diện quân sự của Hoa Kỳ—nhằm tranh thủ được những nhượng bộ từ Cọng Xả tại các cuộc đàm phán Paris.

Chiến lược mới, theo như Nixon và Laird hình thành, luôn cân nhắc để lại một lực lượng trấn giữ. Phát biểu trước Tiểu ban Hạ viện về Khoản phân bổ của Bộ Quốc phòng vào tháng 2 năm 1970, Laird tuyên bố: “Theo chương trình Việt Nam hóa trong giai đoạn thứ ba, chúng tôi dự đoán rằng một phái bộ hỗ trợ quân sự sẽ vẫn ở Việt Nam. Đây sẽ không phải là một lực lượng lớn như lực lượng chúng ta có ở Hàn Quốc hiện nay, cũng không phải là một lực lượng lớn như lực lượng chúng ta có ở Châu Âu. Đây sẽ là một phái bộ hỗ trợ quân sự, và chúng ta có yêu cầu này trong một thời gian tới.” Người miền Nam coi những tuyên bố như thế này và nhiều tuyên bố tương tự khác là bằng chứng cho lời hứa rằng Hoa Kỳ sẽ không bỏ rơi họ. Khi tiếng gào thét kêu gọi Hoa Kỳ rút quân hoàn toàn ngày càng lớn ở Hoa Kỳ, ý tưởng về một lực lượng Hoa Kỳ còn lại cuối cùng sẽ bị loại bỏ, một thay đổi sẽ có tác động tàn phá đến vận mệnh của miền Nam.

LỰC LƯỢNG MIỀN NAM
Trong khi các đơn vị Hoa Kỳ tiếp tục tiến hành các hoạt động chiến đấu chống lại lực lượng Cọng Xả, chính sách Việt Nam hóa mới ban đầu tập trung vào việc hiện đại hóa và phát triển lực lượng vũ trang Nam Việt Nam. Nỗ lực này bao gồm việc tăng cường cơ cấu lực lượng QLVNCH với trọng tâm là cải thiện hỏa lực và khả năng cơ động.

Trước khi chính sách đó được đưa ra, lực lượng Nam Việt Nam tương đối nhỏ. Khi năm 1968 sắp kết thúc, QLVNCH bao gồm bốn quân chủng: Lục quân Việt Nam, Không quân Việt Nam, Hải quân Việt Nam, Quân đoàn TQLC. Ngoài ra còn có các đơn vị và bộ tư lệnh chuyên biệt, chẳng hạn như Sư đoàn Nhảy dù, Quân khu Thủ đô, Lực lượng Đặc biệt và Bộ Tư lệnh Huấn luyện.
Các lực lượng vũ trang Nam Việt Nam do Bộ Tổng tham mưu Liên quân chỉ đạo tại Sài Gòn. Lưu ý các Sư đoàn Nhảy dù và Lực lượng Đặc biệt cũng nằm dưới sự chỉ huy trực tiếp của Bộ Tổng tham mưu Liên quân.

Tổng tham mưu trưởng Liên quân, tổng tư lệnh của QLVNCH, đứng đầu các phó tham mưu trưởng phụ trách nhân sự, hậu cần, chiến tranh chính trị và hoạt động. Cấp chỉ huy tiếp theo thuộc Bộ Tổng tham mưu Liên quân trong QLVNCH bao gồm bốn tư lệnh quân khu, mỗi tư lệnh giám sát một trong bốn vùng chiến thuật của quân đoàn (I, II, III và IV) (xem bản đồ 1). Các tư lệnh quân đoàn chỉ đạo các hoạt động quân sự trong vùng chiến thuật tương ứng của họ (các tên gọi vùng chiến thuật đã được đổi thành các quân khu vào năm 1971; ví dụ, Vùng 1 chiến thuật Quân đoàn I trở thành Quân Khu I). Mỗi tư lệnh quân đoàn được phân công từ hai đến ba trong số mười sư đoàn bộ binh chính quy của QLVNCH. Sư đoàn bộ binh số 1 và số 2 được triển khai đến QK I ở phía nam Khu Phi Quân sự (DMZ); Sư đoàn bộ binh số 22 và số 23 được triển khai đến QK II ở Cao nguyên Trung phần; Sư đoàn 5, 10 (sau này đổi tên thành 18) và 25 đến QK III; và 7, 9 và 21 đến QK IV ở Đồng bằng Cửu Long.

doE8x5.png

Bản đồ 1. Các vùng chiến thuật của quân đoàn Việt Nam Cộng hòa và các đơn vị chính của Nam Việt Nam, 1972.

Ngoài các lực lượng sư đoàn, tổng cộng có 20 tiểu đoàn biệt động được phân bổ đến các sở chỉ huy quân đoàn tương ứng, nơi họ thường phục vụ như lực lượng dự bị của quân đoàn. Lực lượng dự bị chung (chiến lược), hoạt động dưới sự chỉ đạo của Bộ Tổng tham mưu, bao gồm các sư đoàn Nhảy dù và Thủy quân lục chiến. Mặc dù Thủy quân lục chiến Việt Nam về danh nghĩa nằm dưới sự chỉ huy của Hải quân Việt Nam, họ thực sự đã chiến đấu như một lực lượng bộ binh miền Nam, thường hoạt động dưới sự chỉ đạo của tư lệnh Quân đoàn I. Tổng cộng, 141 tiểu đoàn cơ động của QLVNCH đã hoạt động trên khắp miền Nam vào năm 1968.
Cùng với lực lượng bộ binh chính quy và TQLC là Lực lượng Địa phương quân và Dân quân, các đơn vị lực lượng lãnh thổ chịu trách nhiệm bảo vệ các thôn, làng và các cơ sở quan trọng của chính phủ. ĐPQ được tổ chức thành các đại đội khoảng 100 người mỗi đại đội và DQ thành các trung đội, mỗi trung đội khoảng 40 người. Tất cả các đại đội ĐPQ và trung đội DQ đều được đặt dưới quyền kiểm soát hoạt động của chỉ huy khu vực tại tỉnh mà họ đóng quân. Đến tháng 6 năm 1968, tổng quân số ĐPQ bao gồm 197.900 người được tổ chức thành 1.053 đại đội và 12 sở chỉ huy tiểu đoàn; Lực lượng DQ vào thời điểm đó tổng cộng là 164.300 người được phân công vào 4.861 trung đội. Do mở rộng nỗ lực bình định sau cuộc tấn công Tết Mậu Thân, ĐPQ/DQ có nhiều thành viên vào năm 1968 hơn những năm trước.
Không quân Việt Nam nhỏ so với Lục quân. Đến năm 1968, chỉ có 17.000 quân. Máy bay chiến đấu chính của KQVN vào thời điểm đó là A-1 Skyraider, một máy bay tiêm kích-ném bom cánh quạt thời Chiến tranh Triều Tiên. Máy bay chở hàng chính là C-47, loại máy bay thời Thế chiến II. KQVN cũng được trang bị trực thăng H-34.
Hải quân Việt Nam, giống như KQVN, cũng tương đối nhỏ so với Lục quân. Hải quân chịu trách nhiệm phòng thủ bờ biển và các hoạt động trên sông ở Đồng bằng sông Cửu Long. HQVN, với quân số 12.000 vào năm 1965, chỉ tăng đến 17.000 vào năm 1968. Vào thời điểm đó, lực lượng này được trang bị giang thuyền tuần tra sông, các tàu đổ bộ hỗn hợp, tàu tuần tra ven biển tốc độ cao và một số tàu tuần tra biển như tàu khu trục.
Đến cuối năm 1968, thậm chí trước khi nỗ lực Việt Nam hóa được thực hiện, QLVNCH đã tạo nên một lực lượng hùng mạnh bao gồm hơn 700.000 người có vũ trang. Tổng số được liệt kê trong Bảng 1.

Bảng 1. Quân lực Việt Nam Cộng hòa

Lục quân 321.056

TQLC 8.271

KQVN 17.198
HQVN 17.178
ĐPQ 185.871
Dân quân 167.640
Tổng số 717.214
Nguồn: Nguyễn Duy Hinh, Vietnamization and the Cease-Fire (Washington, D.C.: U.S. Army Center of Military History, 1980).

NHỮNG NỖ LỰC BAN ĐẦU ĐỂ HIỆN ĐẠI HÓA QLVNCH
Mặc dù việc cải thiện và hiện đại hóa QLVNCH không phải là nỗ lực mới vào năm 1969, nhiệm vụ này chỉ có tầm quan trọng thứ yếu trong những năm trước, khi các nhà lãnh đạo quân sự Hoa Kỳ tập trung vào việc tiến hành các hoạt động của các đơn vị Hoa Kỳ trên chiến trường. Sau khi Richard Nixon được bầu làm tổng thống và chủ trương tiếp theo của ông vào sứ mạng Việt Nam hóa, nỗ lực củng cố và hiện đại hóa các lực lượng Nam Việt Nam đã trở thành ưu tiên hàng đầu của MACV.

Ngay cả trước khi Nixon nhậm chức, các kế hoạch đã được xây dựng để tăng quy mô của QLVNCH. Vào đầu tháng 4 năm 1968, Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ đã ra lệnh cho MACV xây dựng một kế hoạch hiện đại hóa cho các lực lượng vũ trang Nam Việt Nam. Kết quả là một kế hoạch được gọi là Kế hoạch tháng 5-68, giải quyết ba mục tiêu. Mục tiêu đầu tiên là phát triển QLVNCH thành một lực lượng cân bằng với khả năng chỉ huy, quản lý và tự hỗ trợ để tiếp tục chiến đấu thành công sau khi quân đội Hoa Kỳ và Quân đội BV rút lui. Để đạt được một lực lượng cân bằng, có năng lực đòi hỏi một lực lượng không quân và hải quân mở rộng, cũng như các yếu tố hậu cần bổ sung. Một số hỗ trợ sẽ tiếp tục được cung cấp bởi lực lượng Hoa Kỳ. Mục tiêu thứ hai là hiện đại hóa QLVNCH bằng cách thay thế vũ khí lỗi thời bằng súng trường M-16 và súng máy M-60. Các phương tiện và thiết bị truyền tin lỗi thời hoặc hư hỏng sẽ được thay thế bằng các phương tiện và máy phát sóng hiện đại hơn. Mục tiêu thứ ba là lập kế hoạch chuyển giao thiết bị của Hoa Kỳ cho QLVNCH khi lực lượng Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam.

wzeHM0.png

Các thành viên của Tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến Việt Nam số 8 và các cố vấn của họ chuẩn bị triển khai hoạt động cơ động đường không vào Thung lũng Bãi Lộc, tháng 9 năm 1970. (National Archives Photo)

Như đã lưu ý trước đó, hầu hết các đợt tăng cường lực lượng trước đây đều liên quan đến việc tăng quy mô của Lục quân, trong khi không quân, hải quân và TQLC tăng rất ít. Sự tăng trưởng không đồng đều này xảy ra khi các nhà hoạch định Hoa Kỳ vẫn giữ quyết định rằng lực lượng Hoa Kỳ sẽ bù đắp cho những thiếu sót về năng lực của các lực lượng đó. Tuy nhiên, khi Hoa Kỳ bắt đầu đàm phán hòa bình với Bắc Việt và quyết định chuyển giao nhiều trách nhiệm hơn trong cuộc chiến cho Nam Việt Nam, thì rõ ràng các lực lượng khác của miền Nam sẽ phải được hiện đại hóa và tăng quy mô để thay thế khả năng chiến đấu bị mất đi khi Không quân, Hải quân và Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ rút lui. Do đó, Kế hoạch tháng 5-68 không chỉ giải quyết vấn đề hiện đại hóa Lục quân mà còn tập trung vào việc tăng cường năng lực của Không quân, Hải quân và TQLC.

Kế hoạch tháng 5-68 và những kế hoạch tiếp theo dự trù một lực lượng Hoa Kỳ “còn lại” sẽ vẫn trú đóng và tiếp tục cung cấp hỗ trợ chiến đấu và hậu cần bổ sung trong quá trình tái cấu trúc và hiện đại hóa QLVNCH. Quan trọng là, kế hoạch này dựa trên giả định về việc quân đội Hoa Kỳ và Bắc Việt Nam cùng rút khỏi Nam Việt Nam, một giả định cuối cùng sẽ biến mất.

Khi kế hoạch được MACV đệ trình lên Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Clark Clifford đã chỉ đạo sửa đổi để nhấn mạnh vào việc “tối đa hóa sức mạnh trên chiến hào”, thay vì tập trung vào việc giúp QLVNCH tự cung tự cấp bằng cách tăng số lượng các đơn vị hỗ trợ hậu cần. Vì lý do chính trị trong nước, Clifford muốn tăng cường mức thể hiện của khả năng chiến đấu trên chiến trường của Sài Gòn. Theo đó, vào ngày 25 tháng 6 năm 1968, Thứ trưởng Quốc phòng Paul Nitze đã gửi cho chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân một bản ghi nhớ chỉ đạo rằng Kế hoạch tháng 5 phải được sửa đổi theo mong muốn của bộ trưởng. Ông đề xuất rằng kế hoạch phải được sửa đổi để phản ánh hai giai đoạn. Trong “Giai đoạn I”, MACV sẽ cung cấp mọi hỗ trợ, đặc biệt là trong lĩnh vực hậu cần, cần thiết để đảm bảo rằng QLVNCH đảm nhận một phần vụ lớn hơn vai trò chiến đấu trên chiến trường. Trong “Giai đoạn II”, sẽ diễn ra đồng thời, MACV sẽ thực hiện các biện pháp hỗ trợ phát triển một cơ cấu lực lượng Nam Việt Nam tự cung tự cấp “có khả năng trấn áp các cuộc nổi dậy VC có thể vẫn còn khi lực lượng Bắc Việt và Hoa Kỳ rút lui”. Như nhà sử học của Quân đội Hoa Kỳ Jeffrey J. Clarke chỉ ra, không có thời điểm nào trong các cuộc thảo luận về Kế hoạch tháng 5-68 hoặc trong hướng dẫn tiếp theo do Clifford và Nitze cung cấp, bất kỳ bên nào, bao gồm cả MACV, từng cân nhắc “viễn cảnh về một cuộc rút quân đơn phương của Hoa Kỳ sẽ khiến miền Nam phải đối mặt với mối đe dọa kết hợp giữa Việt Cộng và Bắc Việt”.

Với lễ nhậm chức của Richard Nixon, các kế hoạch hiện đại hóa QLVNCH và chuyển giao nhiều trách nhiệm chiến đấu hơn đã trở nên cấp bách hơn. Bất chấp những cảnh báo đã đề cập trước đó về việc cố gắng xây dựng một lực lượng Nam Việt Nam để chống lại cả cuộc nổi dậy của VC và xâm lược của Quân Bắc Việt, Nixon và Laird vẫn kiên quyết yêu cầu các đề xuất để thực hiện điều đó. Với hướng dẫn ban đầu được cung cấp trong Bản ghi nhớ Nghiên cứu An ninh Quốc gia 36 và thông báo chính thức về Việt Nam hóa tại Midway vào tháng 6 năm 1969, Tổng thống Nixon đã nêu rất rõ rằng ông muốn cuộc chiến được chuyển giao cho miền Nam càng nhanh càng tốt. Để làm như vậy, các nhà hoạch định quân sự tập trung vào ba lĩnh vực để tăng năng lực chiến đấu của QLVNCH. Hai mục tiêu đầu tiên, tăng quy mô lực lượng và cung cấp vũ khí và trang thiết bị hiện đại dễ hơn mục tiêu thứ ba, bao gồm nâng cấp chất lượng và năng lực chiến đấu của lực lượng miền Nam trên chiến trường.

xTxS4e.png

Cố vấn pháo binh Hoa Kỳ từ Đội cố vấn 40 quan sát binh lính QĐVNCH thực hiện cuộc tập trận phân đội trên một khẩu pháo 155mm tại Đức Mỹ, tháng 4 năm 1970. (National Archives Photo)


CẢI THIỆN CƠ CẤU LỰC LƯỢNG VÀ TRANG THIẾT BỊ

Khi Nixon gặp Tổng thống Thiệu tại Midway vào tháng 6 năm 1969 và tuyên bố việc khởi xướng chính sách Việt Nam hóa, Thiệu đã bày tỏ mối quan ngại đáng kể về năng lực của lực lượng mình trước tình hình quân đội Hoa Kỳ sẽ rút lui không thể tránh khỏi. Ông thực sự lo lắng về giả định đằng sau chính sách mới cho rằng một QLVNCH được cải tổ có thể chống lại cả cuộc nổi dậy của VC và cuộc xâm lược của các đơn vị chủ lực Quân đội Nhân dân Việt Nam ở miền Nam. Theo đó, Thiệu và các tướng lĩnh của ông đã đưa ra một số đề xuất của riêng mình. Nam Việt Nam muốn tăng quân số từ 875.000 lên hơn 1 triệu. Lo ngại về khả năng tấn công bằng xe tăng của Bắc Việt trên khắp DMZ, họ cũng muốn tăng cường khả năng thiết giáp của mình bằng cách thành lập hai lữ đoàn thiết giáp mới và ba đội kỵ binh thiết giáp nữa. Là một phần của nỗ lực này, họ hy vọng sẽ đổi xe bọc thép chở quân M-113 chạy bằng xăng sang các mẫu xe chạy bằng dầu diesel hiện đại hơn và xe tăng hạng nhẹ M-41 lỗi thời của mình lấy xe tăng chiến đấu chủ lực M-48 mới hơn và mạnh hơn.
Ngoài ra, Sài Gòn đề xuất thành lập một nhánh pháo binh lãnh thổ mới với 65 khẩu đội lựu pháo 105 mm (390 khẩu pháo dã chiến) và 18 khẩu đội lựu pháo 155 mm (108 khẩu pháo dã chiến). Mức độ tăng cường này sẽ cải thiện đáng kể khả năng yểm trợ hỏa lực cho các lực lượng an ninh lãnh thổ và cho phép các đơn vị pháo binh sư đoàn và quân đoàn hiện có cơ động hơn và do đó phản ứng tốt hơn với các đơn vị cơ động thường xuyên.

Thiệu không chỉ muốn cải thiện Lục quân mà còn muốn tăng cường khả năng của các lực lượng khác. Ông yêu cầu hỗ trợ tài chính nhiều hơn để tăng cường lực lượng lãnh thổ (tức ĐPQ/DQ). Ông yêu cầu toàn bộ phi đội máy bay vận tải C-47 cũ của KQVN được thay thế bằng máy bay C-130 mới hơn, lớn hơn và cung cấp thêm nguồn tài trợ cho ba đơn vị không quân mới, tổng cộng 95 máy bay chuyên dụng mới phục vụ tìm kiếm và cứu nạn, hoạt động biệt kích và giám sát bờ biển và sông. Ông cũng yêu cầu 8 trạm radar mới, 2 khẩu đội tên lửa phòng không Hawk và 11 tiểu đoàn pháo phòng không. Ông muốn Hoa Kỳ tài trợ nhiều tàu lớn hơn cho lực lượng hải quân miền Nam, tài trợ để thành lập thêm ba tiểu đoàn TQLC và tiến tới thành lập một sư đoàn TQLC sau đó. Ngoài việc yêu cầu hỗ trợ để tăng quy mô và năng lực của lực lượng, Thiệu còn yêu cầu thêm kinh phí để chi trả cho mức sống cao hơn cho quân nhân của mình, bao gồm tăng lương và ăn uống miễn phí cho tất cả binh sĩ. Rõ ràng, yêu cầu của Thiệu biểu thị sự gia tăng đáng kể trong nguồn tài trợ của Hoa Kỳ dành cho QLVNCH.
Laird yêu cầu Abrams xem xét các yêu cầu của Thiệu và đề xuất những gì nên làm về chúng. Sau khi nghiên cứu các vấn đề với đội ngũ nhân viên của mình, Abrams trả lời Laird rằng ông ủng hộ việc tăng quy mô cơ cấu lực lượng QLVNCH, cũng như một số cải tiến về vật chất, nhưng không chấp thuận các yêu cầu về các đơn vị không quân, thiết giáp, pháo binh và phòng không mới. Lý do của ông là những cải tiến này là không cần thiết xét đến sự hỗ trợ của lực lượng Hoa Kỳ. Ông coi yêu cầu của Thiệu về việc hỗ trợ tài chính bổ sung cho quân nhân của mình là một “vấn đề nội bộ của Nam Việt Nam”.

Đô đốc John S. McCain, chỉ huy Lực lượng Thái Bình Dương và là cấp trên trực tiếp của Abrams, và Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân đã đồng ý với khuyến nghị của Abrams về các yêu cầu của Thiệu. Sự xác nhận của Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân đối với bộ trưởng quốc phòng cho biết rằng thiết bị hiện có của Nam Việt Nam “có vẻ đủ về mặt yêu cầu hiện tại và khả năng kỹ thuật hạn chế của Việt Nam”, nhưng lưu ý rằng “khi các khả năng này được cải thiện và nếu nhu cầu hoạt động thay đổi, các hệ thống vũ khí tinh vi hơn nên được xem xét để trao cho QLVNCH”.

Vào ngày 18 tháng 8 năm 1969, Laird đã chấp thuận các khuyến nghị của Abrams về việc tăng cường cơ cấu lực lượng cho QLVNCH. Những điều này được gọi chung là “Midway increas (Tăng cường Midway)”. Với sự chấp thuận của mình, Laird đã cung cấp thêm hướng dẫn cho Abrams và Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân, giao cho họ xem xét tất cả các chương trình đang diễn ra và được dự kiến để cải thiện QLVNCH nhằm giúp QLVNCH có khả năng đối phó với mối đe dọa kết hợp giữa Việt Cộng và Bắc Việt. Ông yêu cầu họ không chỉ xem xét cải thiện cơ cấu lực lượng và trang thiết bị, mà còn xem xét những cách mới để cải thiện khả năng lãnh đạo và huấn luyện, đồng thời phát triển các chiến lược và chiến thuật mới phù hợp nhất với năng lực của Nam Việt Nam. Chỉ thị của Laird đại diện cho một sự thay đổi mạnh mẽ trong hướng dẫn lập kế hoạch mà Lầu Năm Góc và trụ sở MACV tại Sài Gòn đã thực hiện. Mặc dù đã nhiều lần cảnh báo nghiêm trọng Nam Việt Nam không thể xử lý được mối đe dọa kết hợp, nhưng rõ ràng là vì lý do chính trị trong nước, lực lượng Sài Gòn cuối cùng sẽ tự mình phải đối phó với cả hai mối hiểm họa.

Vào ngày 2 tháng 9, Abrams đã trả lời hướng dẫn của Laird. Ông chỉ ra một cách rất trực tiếp rằng các chương trình hiện đại hóa và cải tiến được đề xuất, ngay cả với Midway Increase, sẽ không cho phép Nam Việt Nam xử lý được mối đe dọa kết hợp hiện tại. Trích dẫn sự lãnh đạo kém, tỷ lệ đào ngũ cao và tình trạng tham nhũng trong các cấp bậc cao của QLVNCH, Abrams báo cáo rằng theo ông lực lượng Nam Việt Nam không thể được cải thiện về mặt số lượng hoặc chất lượng ở mức độ cần thiết để đối phó với một mối đe dọa kết hợp; ông nêu rõ quan điểm của mình rằng những gì bộ trưởng quốc phòng mong muốn đơn giản là không thể thực hiện được.
Laird không thể chấp nhận đánh giá của Abrams, bởi vì nếu ông chấp nhận, điều đó có nghĩa là ông sẽ phải thừa nhận rằng Hoa Kỳ không bao giờ có thể thoát khỏi Chiến tranh Việt Nam một cách nhẹ nhàng, đặc biệt là khi xét đến thực tế ngày càng rõ ràng là Bắc Việt sẽ không đồng ý rút quân song phương với Hoa Kỳ khỏi miền Nam. Điều tốt nhất mà Hoa Kỳ có thể hy vọng là xây dựng quân đội Nam Việt Nam để họ có thể cầm cự ít nhất trong một khoảng thời gian hợp lý sau khi quân đội Hoa Kỳ rút đi. Vì vậy, Laird muốn đẩy nhanh các nỗ lực nhằm tăng cường khả năng chiến đấu của QLVNCH.

wKXQjh.png

Thiếu tá H. Lee, Cố vấn Phượng Hoàng tỉnh Vĩnh Long, thảo luận về nhiệm vụ trong ngày với người đồng cấp của mình,Trung úy Nguyễn Thế, tháng 7 năm 1970. (Ảnh Lưu trữ Quốc gia)


Vào ngày 10 tháng 11, ông đã chỉ đạo Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân đưa ra một kế hoạch mới, một kế hoạch “Giai đoạn III”, theo cách này hay cách khác, sẽ tạo ra một lực lượng quân đội Nam Việt Nam có thể “duy trì ít nhất mức độ an ninh hiện tại”. Ông bảo các nhà hoạch định quân sự đảm nhận việc rút quân đơn phương của Hoa Kỳ sẽ cắt giảm sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ trước tiên xuống còn một “lực lượng hỗ trợ” từ 190.000 đến 260.000 quân vào tháng 7 năm 1971 và sau đó là một lực lượng cố vấn nhỏ hơn nhiều vào tháng 7 năm 1973. Trên thực tế, ông bảo các nhà hoạch định lần thứ ba hãy đưa ra một chương trình Việt Nam hóa khả thi, nhưng với điều kiện mới là lực lượng hỗ trợ Hoa Kỳ còn ở lại miền Nam sẽ không lớn. Cuối cùng, các mệnh lệnh của Laird đã được truyền đạt rõ ràng; phản ứng của giới quân sự Sài Gòn sau đó đã theo ý ông hơn. Abrams và ban tham mưu của mình, nhận ra rằng con xúc xắc đã được tung ra liên quan đến việc rút quân cuối cùng của Hoa Kỳ và bất chấp những lo ngại lớn của họ, dường như đã cố gắng đưa ra kế hoạch tốt nhất có thể dựa trên các chỉ thị kiên quyết của Laird. Để tuân thủ các lệnh của bộ trưởng, các nhà hoạch định quân sự đã giả định rằng mối đe dọa từ Việt Cộng đã giảm và sự hiện diện của QĐNDVN ở miền Nam đang giảm, trong khi hầu như bỏ qua các lực lượng của Hà Nội đang đóng quân ngay bên ngoài biên giới Nam Việt Nam.

Sau khi đưa ra những giả định có phần đáng ngờ này, MACV đã đệ trình các khuyến nghị mới của mình vào cuối tháng 12. Vào tháng 1 năm 1970, Bộ Tổng tham mưu đã đưa chúng vào Kế hoạch Cải tổ và Hiện đại hóa QLVNCH Giai đoạn III đã được sửa đổi, trong đó kêu gọi tăng quân số QLVNCH lên 1.061.505 trong khoảng thời gian ba năm (giữa năm 1970 đến giữa năm 1973). Kế hoạch này cũng kêu gọi 10 tiểu đoàn pháo binh mới, 24 đại đội xe tải và 6 phi đội trực thăng nữa cho Không quân Việt Nam Cộng hòa. Laird và các nhân viên của ông nghĩ rằng kế hoạch này cuối cùng đã là một bước đi đúng hướng, nhưng họ lo ngại rằng các nhà hoạch định của MACV vẫn chưa chấp nhận thực tế là sẽ không có lực lượng hỗ trợ lớn nào của Mỹ còn ở lại và nghi ngờ rằng quân đội đang cố gắng trì hoãn quá trình rút quân. Vì vậy, vào giữa tháng 2 năm 1970, Laird bay đến Sài Gòn để gặp Abrams và Thiệu nhằm nhấn mạnh với họ về tính cấp bách của tình hình. Ông bày tỏ nỗi thất vọng khi MACV không đưa ra bất kỳ cách tiếp cận mới mẻ hoặc sáng tạo nào liên quan đến việc thực hiện chương trình Việt Nam hóa. Trong thời gian ở Sài Gòn, ông đã gặp riêng các tướng lĩnh cao cấp của miền Nam, họ bày tỏ mối quan ngại về kế hoạch Giai đoạn III. Cụ thể, họ nhắc lại các yêu cầu trước đó về tăng cường pháo binh, bao gồm pháo tầm xa 175 mm và pháo phòng không, và một lần nữa yêu cầu hỗ trợ tài chính để cải thiện cuộc sống quân nhân.
Khi Laird trở về Washington, ông đã ra lệnh cho Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân đánh giá lại kế hoạch Giai đoạn III được đề xuất theo yêu cầu của Nam Việt Nam và đưa ra một kế hoạch toàn diện hơn. Hai tháng sau, Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân đã đệ trình kế hoạch đã sửa đổi, được gọi là Kế hoạch Cải tổ và Hiện đại hóa QLVNCH Củng cố (gọi tắt là CRIMP). Kế hoạch, bao gồm các năm tài chính 1970–72, đã nâng tổng số lực lượng quân sự Nam Việt Nam được hỗ trợ lên con số chẵn 1,1 triệu. Laird đã phê duyệt hai năm đầu tiên của kế hoạch, nhưng hoãn phê duyệt phần còn lại cho đến khi ông đánh giá tốt hơn về tình hình quân sự dài hạn ở miền Nam và tình hình tài chính ở Hoa Kỳ.

CRIMP đã tác động đáng kể đến toàn bộ QLVNCH, nhưng, như trong quá khứ, Lục quân đã nhận được phần lớn các cải tiến. Theo CRIMP, Lục quân cuối cùng đã nhận được các khẩu pháo tầm xa 155 mm và 175 mm, vũ khí phòng không M-42 và M-55, xe tăng M-48 và nhiều hệ thống thiết bị và vũ khí tinh vi khác. Đến cuối năm 1969, Hoa Kỳ đã cung cấp 1.200 xe tăng và xe bọc thép, 30.000 súng máy, 4.000 súng cối, 20.000 máy bộ đàm và 25.000 xe jeep và xe tải. Các thiết bị và vũ khí mới nhận được trong hai năm sau khi CRIMP được chấp thuận đã cho phép Lục quân kích hoạt thêm một sư đoàn bộ binh (Sư đoàn bộ binh số 3), cũng như một số đơn vị nhỏ hơn, bao gồm 25 tiểu đoàn biên phòng, nhiều tiểu đoàn pháo binh, 4 đội kỵ binh thiết giáp, 3 tiểu đoàn xe tăng, 2 sở chỉ huy lữ đoàn thiết giáp và 3 tiểu đoàn phòng không. Đến đầu năm 1972, quân số Lục quân tăng lên đến 450.000, bao gồm 171 tiểu đoàn bộ binh, 58 tiểu đoàn pháo binh, 22 đoàn kỵ binh và xe tăng thiết giáp, và 60 tiểu đoàn pháo binh.

Các lực lượng chính quy được hưởng lợi rất nhiều từ CRIMP, nhưng các lực lượng ĐPQ/DQ cũng vậy. Khi Việt Nam hóa đạt được động lực, MACV và Washington đã lên kế hoạch lấp đầy khoảng trống do các sư đoàn Hoa Kỳ rời đi để lại bằng cách mở rộng ĐPQ/DQ với những đơn vị mà họ hy vọng có thể tiếp quản phần lớn an ninh lãnh thổ và hỗ trợ chương trình bình định. Việc mở rộng lực lượng lãnh thổ liên quan đến việc tăng đáng kể về số lượng và cải thiện thiết bị. Theo CRIMP, ĐPQ/DQ đã nhận được các loại vũ khí mới hơn, hiện đại hơn, bao gồm súng trường M-16, súng máy M-60 và súng phóng lựu M-79, tất cả đều là những cải tiến lớn so với hỗn hợp các loại vũ khí cũ đã bỏ đi mà trước đây họ đã được trang bị. Sự gia tăng của các khẩu lựu pháo 105 mm cuối cùng đã cho phép Bộ Tổng tham mưu Liên quân kích hoạt tổng cộng 174 tiểu đoàn pháo binh lãnh thổ để hỗ trợ cho ĐPQ/DQ và lực lượng biệt kích biên giới. Việc tăng cường mạnh mẽ hóa lực hỗ trợ cho các lực lượng lãnh thổ là đáng kể ở chỗ nó làm giảm gánh nặng cho các lực lượng pháo binh thường trực, những lực lượng này sau đó có thể tập trung vào việc hỗ trợ các tiểu đoàn cơ động chính quy trong các hoạt động tác chiến của họ. Ngoài các thiết bị mới, sức mạnh nhân lực của các lực lượng địa phương quân và dân quân đã được tăng cường trong nỗ lực đưa thêm quân đội vào vùng nông thôn để hỗ trợ nỗ lực bình định. Cơ cấu chỉ huy của lực lượng ĐPQ đã được tổ chức lại. Một số Bộ chỉ huy Nhóm được thành lập.
Không quân Việt Nam cũng được hưởng lợi rất nhiều theo CRIMP, tăng từ 17.000 vào cuối năm 1968 lên 37.000 vào cuối năm 1969 và cuối cùng là 64.000 vào năm 1973. Một sự nâng cấp đáng kể về máy bay và khả năng chỉ huy và kiểm soát đi kèm sự gia tăng về số lượng nhân sự này. Năm 1968, máy bay ném bom chiến đấu phản lực A-37 và F-5A bắt đầu thay thế máy bay tấn công cánh quạt cũ của KQVN, do đó làm tăng đáng kể khả năng hỗ trợ mặt đất của KQVN. Khả năng vận chuyển hàng hóa của KQVN cũng được cải thiện với việc nâng cấp đội bay C-47 ban đầu là máy bay C-119, và cuối cùng là máy bay C-123 và C-7. Phi đội trực thăng đã được mở rộng và cải thiện đáng kể khi các đơn vị hàng không của Quân đội Hoa Kỳ bắt đầu rút đi, chuyển giao máy bay và thiết bị của họ cho các phi đội trực thăng Việt Nam mới được hình thành (không giống như sự sắp xếp của Hoa Kỳ trong đó Lục quân sở hữu hầu hết các trực thăng chở quân và tấn công, Không quân Việt Nam lại sở hữu tất cả các trực thăng trong kho vũ khí của Nam Việt Nam). Vào cuối năm 1972, khi Hoa Kỳ chuẩn bị rút quân hoàn toàn, Không quân Việt Nam, theo các điều khoản của một chương trình đặc biệt có tên là Enhance Plus (Tăng cường Hơn nữa), sẽ nhận được 32 máy bay vận tải C-130A, mỗi máy bay có bốn động cơ, và thêm máy bay vận tải C-7, máy bay ném bom chiến đấu F-5A và trực thăng.

Trong thời kỳ Việt Nam hóa, Không quân Việt Nam đã tăng gấp sáu lần so với quân số năm 1964 và đến năm 1973, đã vận hành tổng cộng 1.700 máy bay, bao gồm hơn 500 trực thăng. Vào thời điểm đó, KQVN có 6 sư đoàn không quân, bao gồm tổng cộng 10 phi đội máy bay ném bom chiến đấu A-37, 3 phi đội trực thăng tấn công A-1H, 3 phi đội máy bay ném bom chiến đấu F-5E, 17 phi đội trực thăng UH-1, 4 phi đội trực thăng CH-47, 10 phi đội liên lạc và quan sát, 3 phi đội C7, 4 phi đội AC-47, AC-119 và EC-47, cùng các đơn vị huấn luyện bổ sung khác.

XhPVJMx.png

Đại úy Thomas Trumble, Đội cố vấn MACV 76, đang theo dõi trong lớp học về bảo dưỡng động cơ tại Trường Thiết giáp QĐVNCH, Thủ Đức, tháng 5 năm 1970. (Ảnh Lưu trữ Quốc gia)

Về mặt trang thiết bị, KQVN là một trong những lực lượng không quân hùng mạnh nhất ở Đông Nam Á vào thời điểm Hoa Kỳ rút quân vào năm 1973. Hải quân Việt Nam cũng đã trải qua quá trình mở rộng đáng kể trong thời kỳ Việt Nam hóa. Hải quân, chỉ có 17.000 thủy thủ vào năm 1968, đạt đến 40.000 vào năm 1972. Để tăng cường năng lực của HQVN và đáp ứng các mục tiêu của chương trình Việt Nam hóa, MACV đã thiết lập hai chương trình mới vào năm 1969. Chương trình đầu tiên được gọi là Chương trình Tăng tốc Chuyển giao Tài sản, được thiết kế để tăng nhanh sức mạnh và huấn luyện của hải quân và đồng thời, tăng tốc chuyển giao tàu và trách nhiệm chiến đấu từ Hải quân Hoa Kỳ sang HQVN. Chương trình thứ hai, Chương trình tăng tốc chuyển giao hậu cần, nhằm mục đích tăng cường khả năng hỗ trợ hậu cần của hải quân.

Nhờ Chương trình Tăng tốc Chuyển giao Tài sản, HQVN đã khởi xướng một chương trình tuyển dụng và huấn luyện mở rộng. Các chuyên gia và thủy thủ Việt Nam đã phục vụ trên các tàu của Hải quân Hoa Kỳ để được huấn luyện tại chỗ. Khi một con tàu của Hoa Kỳ được chỉ định để chuyển giao cho VNN, thủy thủ đoàn đã trở thành thủy thủ đoàn Hoa Kỳ-Nam Việt Nam kết hợp. Mục tiêu là cung cấp cho HQVN một con tàu mới, nhưng chỉ sau khi thủy thủ đoàn miền Nam đã sẵn sàng có thể xử lý và điều khiển nó. Theo chương trình này, HQVN đã nhận được 2 tàu tuần dương nhỏ vào tháng 5 năm 1969. Ngay sau đó, Lực lượng trên sông của Hải quân Hoa Kỳ bắt đầu chuyển giao các thuyền máy và trách nhiệm tuần tra sông của mình cho HQVN. Đến giữa năm 1970, hơn 500 giang thuyền của Hoa Kỳ đã được chuyển giao cho miền Nam. Vào tháng 9 năm đó, HQVN tiếp quản các tàu và nhiệm vụ của chương trình ngăn chặn ven biển Market Time, được thiết kế để ngăn chặn sự xâm nhập qua đường biển nguồn tiếp tế cho quân đội Cọng Xả ở miền Nam. Nỗ lực tăng cường thứ hai, Chương trình tăng tốc chuyển giao hậu cần, được thiết kế để cải thiện cơ sở hạ tầng hậu cần và khả năng hỗ trợ của hải quân. Nhờ hai chương trình tăng tốc này, HQVN đã phát triển nhanh chóng và đến năm 1972 đã vận hành một đội tàu gồm hơn 1.700 tàu và thuyền các loại, bao gồm tàu tuần tra trên biển, tàu chở hàng lớn, tàu tuần tra ven biển và trên sông, và tàu đổ bộ. Về mặt vật chất và trang thiết bị hiện đại, Việt Nam hóa đã có hiệu quả. Đến năm 1970, lực lượng vũ trang của miền Nam đã có bước nhảy vọt về mặt hiện đại hóa để trở thành một trong những lực lượng quân sự lớn nhất và được trang bị tốt nhất trên thế giới.
 
NỖ LỰC CỐ VẤN CỦA HOA KỲ

Tuy nhiên, thật không may, miền Nam cần nhiều hơn là trang thiết bị và những cơn số đơn thuần khi chuẩn bị đảm nhận trách nhiệm cuối cùng cho cuộc chiến. Để cải thiện chất lượng của lực lượng Lục quân, MACV ngày càng chú trọng hơn vào việc huấn luyện và nỗ lực cố vấn. Các cố vấn Hoa Kỳ hoạt động về cơ bản trong ba lĩnh vực: cố vấn cho các đơn vị tác chiến, phục vụ tại căn cứ huấn luyện và làm việc trong các chương trình bình định của tỉnh.

Các trụ sở MACV cung cấp chức năng cố vấn cho Bộ Tổng tham mưu Liên quân, cơ quan đầu não của Lực lượng Vũ trang Việt Nam Cọng Xả. Tuy nhiên, chỉ một phần nhân sự của trụ sở MACV thực sự phục vụ trong khả năng cố vấn. Năm 1970, chỉ có 397 trong số 1.668 vị trí được ủy quyền trong 15 cơ quan tham mưu của MACV được chỉ định chính thức là “cố vấn cho chính quyền và BTTMLQ. Tuy nhiên, khi chiến tranh tiếp diễn và ngày càng có nhiều lực lượng Hoa Kỳ rút lui, các cơ quan tham mưu của MACV ngày càng tham gia nhiều hơn vào các chức năng cố vấn.

Như đã nêu trước đó, ngay dưới cấp BTTMLQ là bốn chỉ huy quân đoàn miền Nam chịu trách nhiệm về bốn vùng chiến thuật của quân đoàn (sau này là các quân khu) của Nam Việt Nam. Ban đầu, những người đồng cấp Hoa Kỳ của họ là các chỉ huy cấp cao của Hoa Kỳ tại mỗi vùng chiến thuật của quân đoàn. Với tư cách này, chỉ huy cấp cao của Hoa Kỳ được hỗ trợ bởi hai phó chỉ huy. Phó chỉ huy của ông về Hoạt động Dân sự và Hỗ trợ Phát triển Nông thôn (CORDS) là cố vấn chính cho chỉ huy quân đoàn Lục quân trong lĩnh vực bình định và phát triển.

Ngoài ra, vị chỉ huy cấp cao của Hoa Kỳ còn có một phó chỉ huy khác, người này từng là cố vấn cấp cao cho chỉ huy quân đoàn và thực tế là người đứng đầu Nhóm cố vấn quân đội Hoa Kỳ được điều động đến bộ chỉ huy quân đoàn miền Nam. Do đó, ông và đội ngũ nhân viên của mình đã tiếp sức, tư vấn và hỗ trợ cho chỉ huy quân đoàn và đội ngũ nhân viên của ông ta về chỉ huy, hành chính, hoạt động tác chiến, huấn luyện, tình báo, hậu cần, chiến tranh chính trị và các vấn đề dân sự. Sau đó, khi các đơn vị bổ sung của Hoa Kỳ và các bộ chỉ huy lực lượng dã chiến cấp cao của Hoa Kỳ rút đi, cơ cấu cố vấn đã thay đổi. Trong giai đoạn 1971–72, bốn bộ chỉ huy hỗ trợ khu vực đã được thành lập. Chỉ huy hỗ trợ khu vực, thường là một thiếu tướng của Quân đội Hoa Kỳ, đã trở thành cố vấn cấp cao cho các chỉ huy quân đoàn Nam Việt Nam tại quân khu tương ứng. Ngoại lệ đối với điều này là ở Quân đoàn II, nơi dân thường John Paul Vann được bổ nhiệm làm cố vấn cấp cao. Vì về mặt kỹ thuật, một dân thường không thể chỉ huy lực lượng quân sự Hoa Kỳ, nên bộ chỉ huy của ông được đổi tên thành Nhóm hỗ trợ quân khu hai (thay vì “Bộ chỉ huy”). Vann có một phó chỉ huy quân sự, một chuẩn tướng quân đội, người thực hiện quyền chỉ huy thay mặt ông. Ngoài ra, Vann hoạt động giống như những chỉ huy hỗ trợ quân khu khác. Nhiệm vụ của các chỉ huy hỗ trợ quân khu là hỗ trợ các chỉ huy quân đoàn trong việc phát triển và duy trì năng lực quân sự hiệu quả bằng cách cố vấn và hỗ trợ các chỉ huy và nhân viên quân sự và bán quân sự của QLVNCH ở mọi cấp trong quân đoàn trong các hoạt động quân sự, huấn luyện, tình báo, quản lý nhân sự, hỗ trợ tác chiến đấu và hỗ trợ dịch vụ tác chiến đấu. Để thực hiện được điều này, chỉ huy hỗ trợ quân khu có một đội ngũ nhân viên làm việc trực tiếp với đội ngũ nhân viên quân đoàn miền Nam. Ông cũng thực hiện quyền kiểm soát hoạt động đối với các nhóm cố vấn cấp dưới và các tổ chức cố vấn bình định trong quân khu. Vì vậy, ông và nhân viên của ông đã cung cấp lời khuyên, hỗ trợ và giúp đỡ ở mỗi cấp bậc của Nam Việt Nam trong việc lập kế hoạch và thực hiện các hoạt động tác chiến và phối hợp các chương trình bình định và phát triển trong quân khu.

E2r259kU.png

Cố vấn Trung sĩ Douglas Smith quan sát một lớp học về tìm kiếm và bắt giữ tại Trung tâm Huấn luyện Quang Trung VNCH, tháng 4 năm 1970. (Ảnh Lưu trữ Quốc gia)

Dưới cố vấn cấp cao của Hoa Kỳ tại mỗi quân khu là hai loại nhóm cố vấn: nhóm cố vấn tỉnh và nhóm cố vấn sư đoàn. Mỗi tỉnh trong số 44 tỉnh ở Nam Việt Nam do một tỉnh trưởng đứng đầu, thường là một đại tá lục quân hoặc TQLC, người giám sát bộ máy chính quyền tỉnh và cũng chỉ huy ĐPQ và DQ của tỉnh. Theo chương trình CORDS khởi xướng năm 1967, một hệ thống cố vấn đã được thành lập để hỗ trợ các tỉnh trưởng trong việc quản lý chương trình bình định. Đối tác người Mỹ của tỉnh trưởng là cố vấn cấp cao của tỉnh, người có thể là quân nhân hoặc dân sự, tùy thuộc vào tình hình an ninh của tỉnh tương ứng. Cố vấn cấp cao của tỉnh và nhân viên của ông chịu trách nhiệm tư vấn cho tỉnh trưởng về các khía cạnh dân sự và quân sự của các chương trình bình định và phát triển của Nam Việt Nam. Ban tham mưu của cố vấn cấp cao của tỉnh, bao gồm cả quân đội và dân sự Hoa Kỳ, được chia thành hai phần: phần đầu tiên phụ trách khu vực và phát triển cộng đồng, bao gồm y tế công cộng và hành chính, các vấn đề dân sự, giáo dục, nông nghiệp, hoạt động tâm lý và hậu cần; phần thứ hai phụ trách các kế hoạch và hoạt động, tập trung vào việc lập kế hoạch và chỉ đạo các hoạt động quân sự của lực lượng lãnh thổ (ĐPQ/DQ) và hỗ trợ liên quan trong tỉnh.

Tỉnh trưởng thực hiện thẩm quyền của mình thông qua các quận trưởng. Để cung cấp lời khuyên và hỗ trợ cho các quận trưởng, cố vấn cấp cao của tỉnh giám sát các cố vấn cấp cao của quận, mỗi cố vấn có khoảng 8 thành viên (mặc dù quy mô thực tế trong mỗi trường hợp phụ thuộc vào tình hình cụ thể của quận đó). Các nhóm cố vấn cấp quận hỗ trợ quận trưởng về các khía cạnh quân sự và dân sự của chương trình bình định và phát triển nông thôn. Ngoài ra, nhóm quận (và/hoặc các nhóm huấn luyện hỗ trợ di động) cố vấn và huấn luyện lực lượng ĐPQ và DQ trong quận. Đến cuối năm 1967, tổng cộng 4.000 quân nhân và nhân viên dân sự Hoa Kỳ đã tham gia vào cơ quan cố vấn CORDS. Khi Việt Nam hóa được chính thức tuyên bố vào năm 1969, tổng số cố vấn của Quân đội Hoa Kỳ là khoảng 13.500, một nửa được giao cho các tổ chức CORDS. Số lượng cố vấn tăng lên là kết quả của việc mở rộng chương trình bình định sau cuộc tấn công Tết Mậu Thân năm 1968.

Các cố vấn Hoa Kỳ khác đã hỗ trợ lực lượng chính quy của QLVNCH. Vào tháng 1 năm 1969, MACV, trong nỗ lực nâng cao năng lực của các sư đoàn chính quy của QĐVNCH, đã khởi xướng khái niệm Đội Hỗ trợ Tác Chiến Sư đoàn (DCAT). Kế hoạch tập trung vào việc giảm số lượng cố vấn chiến thuật trên chiến trường và thay đổi nhiệm vụ của họ từ “cố vấn sang phối hợp hỗ trợ chiến đấu” ở cấp sư đoàn QLVNCH. Nhiệm vụ của DCAT là cố vấn và hỗ trợ vị chỉ huy sư đoàn QLVNCH và ban tham mưu của ông ta trong việc chỉ huy, quản lý, đào tạo, hoạt động chiến thuật, tình báo, an ninh, hậu cần và một số yếu tố của chiến tranh chính trị. Cố vấn cấp cao của sư đoàn, thường là một đại tá của Quân đội Hoa Kỳ, kiểm soát các cố vấn tham mưu sư đoàn và các đội cố vấn trung đoàn và tiểu đoàn, những đội này đã được cắt giảm quân số một cách có chọn lọc bắt đầu từ năm 1969 (tùy thuộc vào sư đoàn và mức độ hoạt động của địch trong khu vực hoạt động tương ứng).

Mỗi sư đoàn miền Nam thường có ba trung đoàn bộ binh, một trung đoàn pháo binh và một số tiểu đoàn riêng biệt, chẳng hạn như đội kỵ binh và tiểu đoàn công binh. Thông thường, mỗi đội cố vấn trung đoàn gồm tám đến mười hai quân nhân Lục quân Hoa Kỳ (số lượng của họ cuối cùng giảm đi khi việc rút quân Hoa Kỳ khỏi đất nước dẫn đến ít cố vấn được chỉ định hơn). Các đội cố vấn trung đoàn thường do một trung tá Lục quân Hoa Kỳ chỉ huy và bao gồm nhiều sĩ quan và hạ sĩ quan (7). Các đội cố vấn tiểu đoàn riêng biệt thường bao gồm một hoặc hai chuyên gia cố vấn trong các lĩnh vực chức năng tương ứng của họ (ví dụ: kỵ binh, tình báo, kỹ thuật, v.v.).

Các đơn vị tinh nhuệ của bộ binh, chẳng hạn như các đơn vị nhảy dù và biệt động, được tổ chức nói chung theo cùng một phương châm như các đơn vị bộ binh chính quy (mặc dù bậc chỉ huy cao nhất trong các đơn vị biệt động là nhóm, tương đương với một trung đoàn). Mỗi nhóm tinh nhuệ này đều có một đội cố vấn người Mỹ đi cùng, do một đại tá chỉ huy và tương tự nhưng lớn hơn một chút so với những đội cố vấn của các trung đoàn chính quy. Cơ cấu cố vấn của Thủy quân Lục chiến Việt Nam tương tự như Lục quân, nhưng các cố vấn là các Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ.

Các cố vấn Lục quân Hoa Kỳ không chỉ huy hoặc thực hiện bất kỳ quyền kiểm soát hoạt động nào đối với bất kỳ bộ phận nào của lực lượng Lục quân. Nhiệm vụ của họ là cung cấp lời khuyên và hỗ trợ quân sự chuyên nghiệp cho các chỉ huy và nhân viên Nam Việt Nam trong các lĩnh vực huấn luyện, hoạt động chiến đấu, tình báo, an ninh, hậu cần và các hoạt động tâm lý/dân sự. Lý tưởng nhất là các đội cố vấn sẽ tự thấy mình mất việc theo thời gian khi Lục quân và TQLC miền Nam bắt đầu đảm nhận ngày càng nhiều trách nhiệm hơn trong việc lập kế hoạch và thực hiện các hoạt động của riêng họ. Tuy nhiên, như các chương sau chứng minh, kết quả mong muốn đã không đạt được.
 
HUẤN LUYỆN
Ngoài những người được giao nhiệm vụ cho nỗ lực CORDS và các đơn vị tác chiến trên chiến trường, một số lượng lớn cố vấn đã được giao nhiệm vụ làm việc với các trung tâm huấn luyện của QLVNCH trong nỗ lực cải thiện chất lượng huấn luyện cho các lực lượng Nam Việt Nam. Đến cuối năm 1972, QLVNCH sẽ trở thành lực lượng quân sự lớn nhất và hiện đại nhất ở Đông Nam Á, nhưng ngay cả một lượng lớn thiết bị tốt nhất trên thế giới cũng sẽ vô nghĩa nếu những người lính, thủy thủ, TQLC và phi công thiếu kiến thức, khả năng lãnh đạo hoặc động lực để sử dụng chúng trên chiến trường chống lại kẻ thù. Về mặt lý thuyết, việc huấn luyện người miền Nam đã được ưu tiên cao trong suốt cuộc chiến, nhưng trên thực tế, quá ít sự chú ý được dành cho chức năng quan trọng này trước khi bắt đầu Việt Nam hóa. Ngay cả khi có chính sách mới, việc cải tổ công tác huấn luyện cho Nam Việt Nam vẫn là một cuộc chiến khó khăn.

Vào đầu năm 1968, hệ thống huấn luyện của QĐVNCH bao gồm 56 trung tâm huấn luyện với nhiều loại hình và quy mô khác nhau, bao gồm 9 trung tâm huấn luyện quốc gia, 37 trung tâm huấn luyện tỉnh và 10 trung tâm huấn luyện sư đoàn (các sư đoàn Nhảy dù và Thủy quân Lục chiến có các trung tâm huấn luyện riêng). Hệ thống trường học và cơ sở huấn luyện rộng lớn này nằm dưới sự kiểm soát của Bộ Tư lệnh Huấn luyện Trung ương QLVNCH, được thành lập lần đầu tiên vào năm 1966. BTLHLTU được Ban Giám đốc Huấn luyện MACV tư vấn và hỗ trợ trong việc phát triển một hệ thống huấn luyện quân sự hiệu quả cho QLVNCH. Do đó, ban giám đốc đã cung cấp các cố vấn Hoa Kỳ tại các trường và trung tâm, nơi họ hỗ trợ các chỉ huy QLVNCH trong việc chuẩn bị và tiến hành các chương trình huấn luyện.

7fO7lb.png

Binh nhất Jerry Sanders và Trung sĩ John Grantham, Đại đội Tín hiệu 124, trình diễn cách tháo rời một khẩu súng trường M-16 cho hai thành viên của Lực lượng Dân quân, Pleiku, tháng 3 năm 1970. (Ảnh Lưu trữ Quốc gia)

Thoạt nhìn, hệ thống trường huấn luyện và trung tâm huấn luyện của QLVNCH năm 1968 là một sự sắp xếp ấn tượng, nhưng khi điều tra sâu hơn, hệ thống này không hiệu quả trong việc huấn luyện ra những nhà chỉ huy và binh lính cần thiết để tiến hành thành công cuộc chiến. Trước năm 1969, MACV đã đưa ra nhiều đề xuất cho Bộ Tổng tham mưu Liên quân Việt Nam và Bộ Tư lệnh Huấn luyện Trung ương để cải thiện năng lực và hiệu quả của các cơ sở huấn luyện của Nam Việt Nam, nhưng bộ tư lệnh cấp cao của QLVNCH không mấy quan tâm đến những khuyến nghị này. Như “Tổng quan về chỉ huy” của MACV năm 1969 nêu rõ, “Bất chấp những nỗ lực của Bộ Tư lệnh Huấn luyện Trung ương và MACV, các lĩnh vực này đạt được rất ít tiến triển trong năm 1969 do những thay đổi phức tạp về nhân sự, sự miễn cưỡng của BTTMLQ trong việc ưu tiên chương trình này và các chỉ huy chiến trường miền Nam từ chối giải phóng các sĩ quan và hạ sĩ quan có kinh nghiệm khỏi các trách nhiệm tác chiến để làm nhiệm vụ huấn luyện.”

Vào đầu năm 1970, chính quyền Hoa Kỳ đã rất lo lắng về tình hình này đến nỗi tổng tham mưu trưởng quân đội đã cử một nhóm điều tra thực tế do Chuẩn tướng Donnelly Bolton dẫn đầu để đi thị sát các cơ sở huấn luyện của QLVNCH, đưa ra đánh giá khách quan về năng lực huấn luyện của Nam Việt Nam và xem xét tình trạng hỗ trợ huấn luyện của Hoa Kỳ. Nhóm của Bolton nhận thấy nỗ lực của cả Nam Việt Nam và các cố vấn huấn luyện quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam là không đủ. Ban huấn luyện MACV, ban tham mưu quân sự Hoa Kỳ chịu trách nhiệm cung cấp cố vấn cho các cơ sở huấn luyện của miền Nam, chỉ đạt 70 phần trăm quân số được giao và tất cả các đội cố vấn huấn luyện của Hoa Kỳ tại chiến trường cũng đều thiếu nhân sự. Một vấn đề khác là chất lượng của nhân viên cố vấn được giao nhiệm vụ huấn luyện tân binh miền Nam tại các trường huấn luyện: nhóm nghiên cứu nhận thấy rằng những người thường bị coi là không đủ năng lực để phục vụ ở các vị trí tác chiến và tham mưu có uy tín thường được đưa vào các đơn vị huấn luyện QLVNCH. Đại tá (sau này là Thiếu tướng) Stan L. McClellan, một thành viên của nhóm Bolton đã viết, “Rõ ràng là các chuyên gia hàng đầu không được giao nhiệm vụ huấn luyện cố vấn”.

Tướng Abrams đồng ý với những phát hiện của nhóm Bolton và thúc giục Bolton khuyến nghị với Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân rằng họ nên gửi nhiều cố vấn huấn luyện hơn và tốt hơn đến Việt Nam. Ông rất quan tâm đến việc bổ sung nhân sự vào các đội cố vấn của mình ở cấp bậc được ủy quyền (tức là trung tá ở các vị trí chỉ định trung tá, v.v.), do đó giảm số lượng cố vấn cấp thấp với ít hoặc không có kinh nghiệm tác chiến. Abrams nói với nhóm, “Đã đến lúc họ [các Tham mưu trưởng Liên quân] thừa nhận tại Washington rằng ngày lực lượng tác chiến Hoa Kỳ tham gia vào Nam Việt Nam đã kết thúc. Tất cả những gì chúng ta phải làm trong thời gian hiện tại là hoàn thành công tác chuẩn bị cho miền Nam tiếp tục nhiệm vụ.”

Đồng thời với cố gắng thuyết phục Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân về tầm quan trọng sống còn của nhiệm vụ huấn luyện tại miền Nam, Abrams cũng gây áp lực lên bộ tư lệnh cấp cao của QLVNCH để cải thiện hệ thống huấn luyện của họ. Trong một lá thư gửi cho Tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng Liên quân vào tháng 3 năm 1970, Abrams đã thúc giục các chỉ huy cấp cao của Nam Việt Nam ủng hộ nỗ lực huấn luyện. Ông viết, “Các sắp xếp hỗ trợ cho các hoạt động của Bộ Tư lệnh Huấn luyện Trung ương phải được mở rộng và đẩy nhanh. Là một nỗ lực cấp thiết nhất, điều cần thiết là phải huy động được lợi ích cá nhân và sự hỗ trợ của các chỉ huy quân đoàn, quân khu của sư đoàn và chỉ huy bộ phận mà mỗi người trong đó . . . là người thụ hưởng sản phẩm của hệ thống huấn luyện, và nên đóng góp vào việc cải thiện chất lượng của sản phẩm.”

Phần lớn là nhờ sự thúc giục của Abrams và nhận thức được thực tế lực lượng Hoa Kỳ sẽ rút lui, bộ chỉ huy cấp cao của QLVNCH bắt đầu chú trọng hơn vào việc cải tổ hệ thống huấn luyện của họ. Sự kiện Hoa Kỳ đã đóng góp 28 triệu đô la để mở rộng và cải thiện các cơ sở huấn luyện của Nam Việt Nam cũng hữu ích. Cuối cùng, sẽ có tổng cộng 33 trường quân sự và dịch vụ lớn, 13 trung tâm huấn luyện quốc gia và khu vực, và 14 trung tâm huấn luyện sư đoàn (xem bản đồ 2). Đến năm 1970, các nhà lãnh đạo Nam Việt Nam bắt đầu điều chuyển các sĩ quan và hạ sĩ quan giàu kinh nghiệm đến các trung tâm huấn luyện. Mặc dù các chỉ huy chiến trường chỉ miễn cưỡng từ bỏ các chỉ huy đơn vị nhỏ kỳ cựu của họ, nhưng đến cuối năm 1971, gần một nửa số huấn luyện viên miền Nam là những quân nhân có kinh nghiệm chiến đấu. Ngoài ra, vào thời điểm này, số lượng nhân viên cố vấn huấn luyện của Hoa Kỳ đã tăng lên và đến cuối năm 1971, hơn 3.500 cố vấn Hoa Kỳ đã trực tiếp tham gia huấn luyện tại hầu hết các trung tâm huấn luyện và các trường huấn luyện lớn của QLVNCH.

Các trường và trung tâm huấn luyện chỉ tập trung tại Quân đoàn II và ở các vùng phụ cận tại Sài Gòn thuộc Quân đoàn III. Tại Quân đoàn I có trường Pháo binh, Học viện Hạ sĩ quan Quốc gia, Cao đẳng Chỉ huy và Tham mưu, Cao đẳng Chiến tranh Chính trị. Tại Quân đoàn III có trường Công binh, Trường Bộ binh, trường Thiết giáp, Trường Quản trị và Tài chính, Cao đẳng Quốc Phòng, Trường Sĩ quan Phụ tá Tư lệnh, Trường quân khí, Trường Quân báo, Trường Quản lý Hậu cần.
 
NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CHỨC NĂNG CỐ VẤN

Ngay cả khi Nam Việt Nam bắt đầu nhận ra sự cần thiết phải nâng cấp các chương trình huấn luyện của họ, chất lượng của các cố vấn Hoa Kỳ vẫn là một vấn đề, không chỉ ở các trung tâm huấn luyện, mà ở mọi cấp độ, bao gồm các đơn vị dã chiến và CORDS.

Vào tháng 12 năm 1969, khi chính sách Việt Nam hóa bắt đầu có động lực và nhiều thay đổi khác nhau về cơ cấu lực lượng, trang thiết bị và huấn luyện được đưa ra, Bộ trưởng Laird, nhận ra tầm quan trọng của các cố vấn đối với quá trình Việt Nam hóa, đã yêu cầu các bộ trưởng nghiên cứu các phương án để nâng cấp nỗ lực cố vấn. Trước thời điểm này, nhiều người trong Quân đội Hoa Kỳ coi việc phục vụ với tư cách là cố vấn là kém mong muốn hơn nhiều so với việc chỉ huy thực địa với một đơn vị Hoa Kỳ, và nhiều sĩ quan và hạ sĩ quan đã tránh nhiệm vụ cố vấn.

Thông thường, các cố vấn được chọn chủ yếu vì họ tình cờ có thể làm nhiệm vụ ở nước ngoài khi luân chuyển hoặc thương vong tạo ra các vị trí cố vấn còn trống. Đối với những người được chọn, chương trình huấn luyện chỉ giới hạn trong một khóa học sáu tuần tại Fort Bragg, Bắc Carolina và trong một số trường hợp, là một khóa học tiếng Việt tiếp theo kéo dài mười một tuần. Vì vậy, nhiều người đã cố gắng hết sức với tư cách là cố vấn nhưng vẫn thiếu kinh nghiệm, đào tạo chưa đủ tốt hoặc, trong nhiều trường hợp, miễn cưỡng trở thành cố vấn.

Laird quyết tâm thay đổi tình hình; ông muốn bổ nhiệm những người giỏi nhất làm cố vấn. Ban đầu, ông không nhận được nhiều sự giúp đỡ từ quân đội; Bộ trưởng Lục quân Stanley Resor cho biết ông sẽ tiếp tục nghiên cứu vấn đề này, nhưng không đưa ra bất kỳ giải pháp hữu ích nào. Quân đội đang cố gắng giải quyết các vấn đề nghiêm trọng về nhân sự. Những đòi hỏi của cuộc chiến đã khiến các sĩ quan và hạ sĩ quan quân đội phải quay trở lại Việt Nam để thực hiện nhiều chuyến công tác, một số cách nhau chưa đầy một năm, và việc kêu gọi cố vấn chỉ làm trầm trọng thêm căng thẳng cho hệ thống nhân sự. Tuy nhiên, Abrams, người rõ ràng đồng ý với Laird về bản chất quan trọng của vai trò cố vấn, tiếp tục thúc giục cần nhấn mạnh hơn vào việc phân công các sĩ quan có trình độ và kinh nghiệm tác chiến cho nhiệm vụ cố vấn. Ông yêu cầu “những người có thể lãnh đạo/gây ảnh hưởng . . . đến công việc bình định,” các sĩ quan “đồng cảm với người miền Nam… đánh giá cao những điểm tốt và hiểu được điểm yếu của họ”; ông muốn có những cố vấn “có thể rút ra những lý tưởng và hành động từ người Việt Nam” để theo đuổi hai mục tiêu chính: “bình định và nâng cấp QLVNCH.”

Laird, ủng hộ chỉ huy của mình trên chiến trường và nhận ra rằng Việt Nam hóa sẽ thất bại thảm hại nếu không có những người phù hợp tham gia nâng cấp việc huấn luyện cho lực lượng Nam Việt Nam, yêu cầu phải lấp đầy các vị trí cố vấn. Theo đó, ông ra lệnh cho ban tuyển mộ chỉ cử những nhân sự có trình độ cao nhất” làm cố vấn. Cuối cùng, họ đã tuân thủ, cử “một nhóm chuyên gia quân sự hàng đầu vào nỗ lực cố vấn huấn luyện của Nam Việt Nam” vào cuối năm 1970. Tình hình sẽ được cải thiện khi nhiều đơn vị Mỹ rời đi, giảm số lượng các nhiệm vụ không phải cố vấn và giải phóng số lượng lớn các sĩ quan cho nhiệm vụ cố vấn. Trong năm 1969, tổng số lượng các đội cố vấn thực địa đã tăng từ khoảng 7.000 lên 11.900, và sau đó lên 14.332 vào năm 1970. Bảng 3 cho thấy số lượng cố vấn thực địa gần đúng của Hoa Kỳ trong giai đoạn 1969–70.

Bảng 3. Lực lượng cố vấn chiến trường ước tính, 1969–70

Q3aj7J.png

Nguồn: USMACV
 
SỰ PHẢN KHÁNG CỦA NAM VIỆT NAM ĐỐI VỚI VIỆT NAM HÓA

Việc người miền Nam không ưa những hàm ý của từ “Việt Nam hóa” cần được thảo luận thêm. Thiệu và nhiều tướng lĩnh của ông đã phản đối toàn bộ khái niệm và hàm ý cho rằng lực lượng QĐVNCH “rốt cục” bây giờ mới đứng lên gánh vác trách nhiệm cho cuộc chiến. Đối với người miền Nam đã chiến đấu với Cọng Xả từ những năm 1950, ý tưởng rằng cuộc chiến hiện tại sẽ được “Việt Nam hóa” là một sự xúc phạm. Đối với bản thân họ, họ đã gánh chịu phần lớn gánh nặng của cuộc chiến với Cọng Xả trước khi người Mỹ đến, và ngày càng rõ ràng là họ sẽ gánh chịu lâu dài sau khi người Mỹ rời đi. Nhận thức này có rất nhiều sự thật. Mặc dù quân đội tác chiến của Hoa Kỳ đã đương đầu các lực lượng chủ lực của Cọng Xả và chịu thương vong nghiêm trọng trong quá trình này, nhưng thương vong của người miền Nam luôn vượt quá thương vong của quân đội Hoa Kỳ (xem Bảng 4). Như cựu thiếu tướng QLVNCH Nguyễn Duy Hinh đã viết, “Chính người Việt Nam đã hy sinh và chịu đựng nhiều nhất. . . . Theo tôi, Việt Nam hóa không phải là một thuật ngữ thích hợp để sử dụng ở Việt Nam, đặc biệt là khi tuyên truyền là một vũ khí quan trọng.” Vấn đề tuyên truyền đặc biệt quan trọng vì người Cọng Xả từ lâu đã tuyên bố rằng lực lượng vũ trang miền Nam chỉ là “quân bù nhìn của đế quốc Mỹ.”

Bảng 4. So sánh thương vong quân sự
WAUedDYM.png

Nguồn: Jeffrey J. Clarke,

Do đó, Tổng thống Thiệu và các tướng lĩnh của ông, thậm chí cả báo chí miền Nam, đã không nói công khai về Việt Nam hóa. Vì không đồng tình với những hàm ý của Việt Nam hóa, chính quyền miền Nam đã không thiết kế thêm bất kỳ chương trình nào của riêng mình để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình này. Tướng Hinh đã viết, “Nam Việt Nam vẫn tiếp tục chiến đấu như trước đây. Các kế hoạch và chương trình cũ [để cải thiện QLVNCH] vẫn được giữ nguyên, ngoại trừ có lẽ mang tính cấp bách và đươc chú ý hơn vì quyết định của Hoa Kỳ giảm dần quân số và cuối cùng là rút quân.”

Mặc dù các nhà lãnh đạo Nam Việt Nam không thích “Việt Nam hóa” như một thuật ngữ và khái niệm, nhưng cuối cùng họ vẫn chấp nhận các chính sách mới của Hoa Kỳ với “cảm giác lẫn lộn giữa tự tin và lo âu.” Rõ ràng là Tổng thống Nixon và Bộ trưởng Quốc phòng Laird đã lên kế hoạch rút toàn bộ quân đội Hoa Kỳ, nhưng Thiệu và các tướng lĩnh của ông cảm thấy có chút tự tin, đặc biệt là trước thành công có điều kiện của QLVNCH trong cuộc tấn công Tết Mậu Thân năm 1968. Mặc dù người Cọng Xả đã bất ngờ tấn công bộ chỉ huy Sài Gòn, QLVNCH cuối cùng đã phục hồi và phối hợp với lực lượng Hoa Kỳ trong nước, gây ra thương vong nghiêm trọng cho lực lượng Cọng Xả. Việc Cọng Xả không thể kêu gọi cuộc tổng nổi dậy của người dân chống lại chính quyền Sài Gòn cũng đã cổ vũ Thiệu. Ông và các chỉ huy chiến trường của mình tin rằng họ có thể tiếp tục cuộc chiến khi không có người Mỹ, nhưng sự tự tin mong manh này dựa trên giả định rằng “Hoa Kỳ sẽ tiếp tục giúp đỡ về mặt tài chính, vật chất, công nghệ và thậm chí là tinh thần, nếu không phải là nhân lực”. Một cựu tướng lĩnh Nam Việt Nam đã viết sau chiến tranh rằng đồng bào của ông đã tin rằng “lực lượng Hoa Kỳ sẽ tiếp tục ủng hộ QLVNCH với sự hỗ trợ của họ để lấp đầy những khoảng trống mà QLVNCH vẫn không thể hoặc không có đủ thời gian để tự mình làm.” Sau đó, khi thực tế rõ ràng là Hoa Kỳ sẽ không còn giúp đỡ Nam Việt Nam nữa, lòng tin của Tổng thống Thiệu và lực lượng của ông đã lung lay sâu sắc, góp phần vào sự hoảng loạn dẫn đến thảm bại cuối cùng.
 
Tao tưởng +s mới ko quên chứ, tại lúc nào cũng kêu đất nc vừa trãi qua 2 cuộc chiến tranh mà :vozvn (19):
Nghe nó sủa dơ chi bồ, cái bài trên là dịch từ cuốn sách của thằng cha Mỹ trắng mà :sad:
 
Đu đu, 50 năm rồi chưa quên được à?
Bọn quân đồng minh chiến thắng quân phát xít bao năm còn k quên đc nữa là nhưng thằng khác, thắng thì có quyền ăn mừng chớ, nó ăn mừng đến muôn đời!!! =))))))) mấy thắng bò vàng thì cũng chỉ rú lên chửi vài câu cũng làm đc cc gì đâu, 20 năm nữa năm nào bọn quân đồng minh, Nga nó cũng ăn mừng hết á, Việt Nam cũng vậy
 
 

Có thể bạn quan tâm

Top