
James H. Willbanks
3 QLVNCH trong Hành động
TÌNH HÌNH CHIẾN ĐẤU—1969
Khi Hoa Kỳ bắt đầu thực hiện Chiến lược Việt Nam hóa một cách nghiêm túc, quân số của Nam Việt Nam tăng nhanh chóng, thiết bị mới và hiện đại hơn được chuyển giao, và nỗ lực cố vấn được cải thiện. Tuy nhiên, những nâng cấp này không được thực hiện trong tình trạng hưu chiến — cuộc chiến vẫn tiếp diễn không ngừng. Do đó, quá trình chuyển giao trách nhiệm cho Nam Việt Nam đối với cuộc chiến, bao gồm những thay đổi đã đề cập về cơ cấu lực lượng và các nỗ lực hiện đại hóa và đào tạo sâu rộng, đã diễn ra trong khi cả lực lượng Hoa Kỳ và QLVNCH vẫn tiếp tục giao tranh với Bắc Việt và Việt Cọng Xả trên chiến trường.
Ngay cả khi chính quyền Nixon nhậm chức và bắt đầu xây dựng chiến lược sẽ trở thành Chiến lược Việt Nam hóa, người Cọng Xả đã chứng tỏ rằng mình sẽ không cho tổng thống mới và các cố vấn của ông bất kỳ khoảng trống nào để thở. Bắc Việt đã phát động một cuộc tấn công trên toàn quốc vào tháng 2 năm 1969. Mục tiêu chính của các cuộc tấn công mới là lực lượng và cơ sở của Hoa Kỳ; các tuyến liên lạc và chương trình bình định đóng vai trò là mục tiêu thứ cấp. Mặc dù lực lượng Cọng Xả đã tấn công hơn 125 mục tiêu chính và tiến hành các cuộc tấn công bằng đặc công và súng cối nhỏ hơn vào 400 mục tiêu khác, nhưng họ không đạt được những kết quả đáng kinh ngạc như chiến thuật bất ngờ trong giai đoạn đầu của cuộc tấn công Tết Mậu Thân năm 1968. Lần này, thông tin tình báo tốt hơn của đồng minh và sức mạnh của lực lượng Cọng Xả suy giảm do tổn thất trong cuộc tấn công của năm trước đã giúp các đồng minh đối phó rất hiệu quả với các cuộc tấn công mới. Tuy nhiên, một đợt thương vong gia tăng của đồng minh đã thúc đẩy Nixon đáp trả vào tháng 3 bằng cách ra lệnh ném bom bí mật vào các khu căn cứ địa của Cọng Xả ở Campuchia.
Khả năng ném bom vào nơi tập kết của Bắc Việt ở Campuchia đã được thảo luận trong một thời gian. Tuy nhiên, Bộ trưởng Quốc phòng Laird phản đối lựa chọn này vì đây là cơn ác mộng chính trị tiềm tàng đối với chính quyền và kêu gọi mạnh mẽ tổng thống theo đuổi chính sách Việt Nam hóa và đẩy nhanh việc rút quân Mỹ. Luôn luôn nhạy bén với tình hình chính trị trong nước, Laird phản đối việc mở rộng chiến tranh theo bất kỳ cách nào và tin rằng việc ném bom Campuchia sẽ phản tác dụng đối với nỗ lực rút Hoa Kỳ khỏi cuộc chiến. Kissinger đồng ý, khuyên Nixon nên cho các cuộc đàm phán một cơ hội. Tuy nhiên, khi lực lượng Cọng Xả tấn công Sài Gòn bằng một cuộc pháo kích tên lửa vào tháng 3, Nixon đã bật đèn xanh cho Chiến dịch Menu, cuộc ném bom bí mật Campuchia. Trong 15 tháng tiếp theo, 3.630 cuộc không kích B-52 bí mật đã được tiến hành vào các vị trí bị nghi ngờ là căn cứ địa Cọng Xả ở Campuchia. Các sự kiện cuối cùng đã chứng minh sự khôn ngoan trong lời khuyên của Laird chống lại bất kỳ nỗ lực bí mật nào nhằm mở rộng cuộc chiến. Mặc dù có khả năng gây ra hậu quả chính trị thảm khốc, nhưng cuộc ném bom bí mật đã có tác động tích cực về lâu dài theo nghĩa thuần túy quân sự, vì nó làm giảm khả năng hỗ trợ từ bên ngoài cho lực lượng Cọng Xả ở Nam Việt Nam.
Nhận ra rằng thời gian là vô cùng quý giá khi ông hoàn thiện chính sách Việt Nam hóa, Nixon hy vọng rằng cuộc ném bom bí mật sẽ làm suy yếu lực lượng Cọng Xả ở miền Nam và tạo thêm thời gian để chính sách mới có hiệu lực.
Tương tự như vậy, Tướng Abrams, khi cố gắng tạo ra một bức màn bảo vệ cho nỗ lực Việt Nam hóa, đã ra lệnh cho lực lượng Hoa Kỳ giữ cho Bắc Việt và Việt Cọng Xả mất cân bằng để ngăn chặn họ tiến hành bất kỳ hành động kéo dài nào có thể cản trở quá trình nâng cấp QLVNCH để đảm nhận trách nhiệm lớn hơn đối với cuộc chiến. Abrams đã chia lực lượng của mình thành các lực lượng đặc nhiệm nhỏ cấp trung đội và cấp đại đội và ra lệnh cho họ tập trung vào các hoạt động tuần tra và hoạt động ban đêm rộng rãi, một chiến thuật mà ông mô tả là “xâm nhập vào hệ thống của kẻ thù”.
Tuy nhiên, việc nhấn mạnh vào các hoạt động của đơn vị nhỏ không có nghĩa là chấm dứt các trận chiến quy mô lớn có sự tham gia của quân đội Hoa Kỳ. Khi Tổng thống Nixon và các cố vấn của ông chuẩn bị cuối cùng để công bố việc khởi xướng Việt Nam hóa tại Midway, Sư đoàn Không vận 101 đã phát động một cuộc tấn công vào Thung lũng A Shau trong nỗ lực dọn sạch Khu căn cứ 611 của Bắc Việt, một khu vực hỗ trợ hậu cần chính của Cọng Xả. Chiến dịch này là sự tiếp nối của Chiến dịch Dewey Canyon, được tiến hành tại cùng khu vực vào đầu năm bởi các thành phần của Sư đoàn Thủy quân Lục chiến số 1. Lính nhảy dù của Sư đoàn 101 đã đụng độ với một lực lượng địch lớn và một trận chiến lớn đã xảy ra tại Đồi Ấp Bia (Đồi 939), sau này được gọi là Đồi Thịt Băm.” Trận này khiến 56 người Mỹ thiệt mạng và 630 quân địch chết. Trận chiến, mặc dù là một thắng lợi về mặt chiến thuật trong việc giữ cho quân BV mất cân bằng, đã gây ra sự phản đối dữ dội của công chúng tại Hoa Kỳ về thương vong nặng nề của người Mỹ và bản chất dường như vô nghĩa của một cuộc giết chóc chứng kiến một cảnh máu đổ thịt rơi chỉ để binh lính Hoa Kỳ rời bỏ chiến trường ngay sau khi cuộc chiến kết thúc. Báo chí Hoa Kỳ đã đưa tin rộng rãi về bình luận của Thượng nghị sĩ Edward Kennedy cho rằng trận chiến là “vô nghĩa và vô trách nhiệm” và lời cáo buộc của ông rằng “Tổng thống Nixon đã nói với chúng ta, không nghi ngờ gì nữa, rằng chúng ta không tìm kiếm chiến thắng quân sự, rằng chúng ta chỉ tìm kiếm hòa bình. Làm sao chúng ta có thể biện minh cho việc gửi những chàng trai của mình đến một ngọn đồi hàng chục lần, cuối cùng chiếm được nó, rồi lại rút lui một tuần sau đó?” Tờ New York Times cho biết sau trận chiến, “Công chúng chắc chắn có quyền đặt câu hỏi về thái độ hung bạo hiện tại của quân đội Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam.” Nhiều người Mỹ coi trận chiến Đồi Thịt Băm là biểu tượng cho sự thất bại của chính quyền Nixon trong việc thực hiện bất kỳ thay đổi đáng kể nào đối với cách tiếp cận của Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam, và tổng thống đã bị chỉ trích gay gắt vì dường như thiếu chiến lược.
Để đáp lại những người ngày càng mệt mỏi vì sinh mạng người Mỹ liên tục mất đi vì những bất động sản dường như vô nghĩa, Nixon và Laird đã chuẩn bị công bố kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh như một bước dạo đầu cho một cuộc rút quân có trật tự của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, chính quyền cần thời gian để thiết lập chính sách mới, và Nixon, mong muốn đạt được “hòa bình trong danh dự”, phải đảm bảo rằng không còn các Đồi Thịt Băm nào nữa. Theo đó, ông đã gửi lời tới Abrams để thực hiện các biện pháp nhằm hạn chế thương vong của Hoa Kỳ.
HOA KỲ RÚT QUÂN
Ngay sau khi các đơn vị Hoa Kỳ giao tranh với kẻ thù tại Đồi Thịt Băm và trong khi giao tranh vẫn tiếp diễn tại nhiều điểm nóng khác trên toàn miền Nam, Tổng thống Nixon đã công bố chính sách Việt Nam hóa và các kế hoạch liên quan nhằm giảm số lượng quân chiến đấu của Hoa Kỳ tại Việt Nam. Bây giờ Abrams phải vật lộn với vấn đề hóc búa về cách chuẩn bị cho lực lượng Nam Việt Nam tiếp quản ngay cả khi ông vẫn tiếp tục tiến hành chiến tranh trên chiến trường. Cả hai nhiệm vụ đòi hỏi này đều phải được giải quyết trong khi Tổng thống Nixon và Bộ trưởng Laird tiếp tục thúc đẩy việc cắt giảm quân số lớn hơn và nhanh hơn.
Như đã lưu ý trước đó, các cuộc thảo luận về việc rút quân của Hoa Kỳ đã bắt đầu ngay sau lễ nhậm chức của Tổng thống Nixon. Trên đường đến Midway vào tháng 6 năm 1969 để công bố việc khởi xướng Việt Nam hóa, các thành viên của chính quyền đã tổ chức một cuộc họp tại Honolulu để đưa ra chiến lược rút quân. Những người tham dự bao gồm Nixon, Kissinger, Laird, Ngoại trưởng Rogers, Đại sứ Ellsworth Bunker và Henry Cabot Lodge, Tướng Earle Wheeler và Tướng Abrams. Kissinger ghi lại rằng “quân đội đã tiếp cận vấn đề [rút quân] với tâm trạng nặng nề. . . . điều đó sẽ khiến chiến thắng trở nên bất khả thi và ngay cả một kết quả đáng trân trọng cũng trở nên có vấn đề.” Trước cuộc họp này, Tướng Abrams đã đặt câu hỏi về quy mô và tốc độ của bất kỳ cuộc rút quân nào được dự kiến. Theo người viết tiểu sử Lewis Sorley của Abrams, vị chỉ huy Hoa Kỳ tin rằng quân đội của mình đang bắt đầu đạt được nhiều thành công hơn trong việc chống lại lực lượng Cọng xả và tất nhiên muốn giữ họ lại để tận dụng lợi thế. Tuy nhiên, Sorley cho rằng, Abrams “cũng đủ nhạy cảm để hiểu được thực tế chính trị tại Hoa Kỳ và những gì chúng báo hiệu nếu cứ tiếp tục theo đuổi cuộc chiến”. Do đó, sau khi quyết định bắt đầu việc rút quân, Abrams đã hết lòng ủng hộ, nhận ra rằng cam kết của Hoa Kỳ phải được thu hẹp để chuyển giao cuộc chiến cho miền Nam. Tuy nhiên, vị chỉ huy Hoa Kỳ vẫn còn lo ngại về thời điểm và sự khôn ngoan của việc rút quân khi sức mạnh của kẻ thù dường như đang suy yếu. Đáp lại, Tướng Wheeler đã đảm bảo với Abrams trong hai lần riêng biệt rằng bất kỳ cuộc tái bố trí nào của Hoa Kỳ cũng sẽ cân nhắc đến tình hình trên chiến trường.
Bất chấp những lo ngại của vị chỉ huy tác chiến, tổng thống đã quyết định công bố đợt rút quân đầu tiên tại Midway và tiến hành việc rút quân của Hoa Kỳ. Việc cắt giảm thêm sẽ dựa trên ba tiêu chí: mức độ hoạt động của kẻ thù, tiến triển trong các cuộc đàm phán hòa bình Paris và mức độ tăng cường QLVNCH. Kissinger đã viết: “Từ nay trở đi, chúng ta [Hoa Kỳ] sẽ chạy đua giữa mức cắt giảm khả năng chiến đấu của chúng ta và mức cải thiện lực lượng Nam Việt Nam—một cuộc đua mà kết quả cùng lắm là không chắc chắn.”
Tuy nhiên, sau khi Nixon tuyên bố đợt rút quân đầu tiên của Hoa Kỳ tại Midway, ông đã “hớn hở” và coi thông báo này là một “chiến thắng chính trị.” Ông nghĩ rằng nó sẽ đạt được một số mục tiêu quan trọng. Đầu tiên, ông hy vọng đợt rút quân đầu tiên sẽ xoa dịu phe phản chiến luôn chỉ trích và mua thời gian cho chính quyền để tiếp tục phát triển chiến lược của mình; thứ hai, ông nghĩ là nó sẽ gửi một tín hiệu đến Bắc Việt rằng Hoa Kỳ nghiêm túc về việc tìm kiếm hòa bình ở Đông Nam Á. Nixon và các cố vấn của ông sẽ cho thấy là mình đã sai lầm về mọi mặt.
Cựu bộ trưởng quốc phòng Clark Clifford đã đưa cho Nixon và Laird động lực mới để mở rộng kế hoạch rút quân của Hoa Kỳ. Vào tháng 7 năm 1969, ông đã đăng một bài báo trên Foreign Affairs kêu gọi rút quân đơn phương 100.000 người vào cuối năm và tất cả nhân sự khác vào cuối năm 1970, chỉ để lại nhân viên hậu cần và không quân. Nixon, người không bao giờ chùn bước trước một thách thức, đã tuyên bố tại một cuộc họp báo rằng ông có thể cải thiện lịch trình của Clifford. Tuyên bố của tổng thống đã nhận được rất nhiều sự chú ý của báo chí và thực sự cam kết Hoa Kỳ sẽ đơn phương rút quân khỏi Nam Việt Nam, do đó xóa bỏ lời hứa cắt giảm quân đội như một con bài mặc cả cho Kissinger trong các giao dịch của ông với Bắc Việt tại Paris. Hậu quả đối với các cuộc đàm phán hòa bình và thỏa thuận ngừng bắn cuối cùng sẽ rất nghiêm trọng.
Lần tái bố trí (một mỹ từ chỉ việc rút quân) đầu tiên 25.000 quân Hoa Kỳ do Tổng thống Nixon hứa đã hoàn thành vào ngày 27 tháng 8 năm 1969, khi những người lính cuối cùng từ lữ đoàn 1 và 2 của Sư đoàn Bộ binh số 9 rời khỏi Đồng bằng sông Cửu Long. Trong những tháng sau thông báo Midway, các cuộc thảo luận vẫn tiếp tục về quy mô và tốc độ rút quân của Hoa Kỳ. Laird đã đưa ra một số phương án cho phần còn lại của năm 1969, dao động từ mức thấp nhất là 50.000 quân đến mức cao nhất là 100.000 quân; ở giữa là nhiều sự kết hợp khác nhau về số lượng và lực lượng. Trong một bản ghi nhớ gửi cho tổng thống, Laird đã cảnh báo ông ta phải cẩn thận về việc rút quân quá nhiều và quá nhanh, vì điều này sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng cho chương trình bình định. Lời cảnh báo của Laird đã được chứng minh là kịp thời. Vào ngày 6 tháng 8, khi những người lính từ Sư đoàn Bộ binh số 9 chuẩn bị rời khỏi Nam Việt Nam, người Cọng xả đã tấn công Vịnh Cam Ranh, năm ngày sau đó là các cuộc tấn công bổ sung vào hơn 100 thành phố, thị trấn và căn cứ trên khắp miền Nam. Dữ liệu lịch sử chính thức của Bắc Việt về cuộc chiến đã tiết lộ rằng Bộ Chính trị tại Hà Nội đã kết luận sau thông báo của Midway rằng Hoa Kỳ đã “mất đi ý chí chiến đấu ở Việt Nam”; do đó, phe Cọng xả, tin rằng họ đang ở vị trí có thể quyết định mức độ và cường độ của cuộc chiến, đã phát động một loạt các cuộc tấn công mới.
Khi Nixon đưa ra thông báo của mình vào tháng 6 về đợt rút quân ban đầu của Hoa Kỳ, ông nhấn mạnh rằng mức độ hoạt động của kẻ thù sẽ là một trong những tiêu chí để cắt giảm thêm. Những cuộc tấn công mới của Cọng xả này rõ ràng đã đi ngược lại các điều kiện của Nixon; thông báo tiếp theo của ông rằng ông đang trì hoãn một quyết định về việc rút quân bổ sung đã gây ra sự náo động trong cả Quốc hội và giới truyền thông. Vào ngày 12 tháng 9, Hội đồng An ninh Quốc gia đã họp để thảo luận về tình hình. Kissinger báo cáo rằng “một phản ứng rất tự nhiên từ chúng tôi sẽ là ngừng đưa quân về nước, nhưng đến giờ việc rút quân đã có được động lực riêng của nó.” Kissinger đã gửi cho tổng thống một bản ghi nhớ hai ngày trước cuộc họp, bày tỏ mối quan ngại về hướng đi hiện tại” của chính quyền tại Nam Việt Nam. Ông cảnh báo rằng “Việc rút quân của Hoa Kỳ sẽ trở nên giống như ăn đậu phộng muối đối với công chúng Hoa Kỳ; càng có nhiều quân đội Hoa Kỳ về nước, thì càng có nhiều yêu cầu rút quân thêm. Về cơ bản, điều này có thể dẫn đến các yêu cầu rút quân đơn phương. . . . Càng có nhiều quân nhân được rút đi, Hà Nội sẽ càng được nước làm tới.” Thời gian sẽ chứng minh Kissinger đúng, nhưng trong cuộc họp của Hội đồng An ninh Quốc gia, ông là người duy nhất phản đối quyết định tiến hành việc cắt giảm quân theo lịch trình. Vào ngày 16 tháng 9, Nixon đã ra lệnh rút thêm 35.000 quân Mỹ vào tháng 12. Theo Kissinger, việc rút quân trở nên “không thể tránh khỏi… [và] Tổng thống không bao giờ cho phép thời hạn một đợt rút quân kết thúc mà không công bố một đợt điều động mới tiếp theo”.
Vào ngày 15 tháng 12, Nixon đã ra lệnh điều động thêm 50.000 quân về nước lần thứ ba trước tháng 4 năm 1970. Vào ngày 20 tháng 4 năm 1970, mặc dù ông tuyên bố 110.000 quân Mỹ đã được về nước trong ba đợt điều động đầu tiên, nhưng thực tế đã có tổng cộng 115.000 quân rời khỏi Việt Nam. Giai đoạn thứ hai của cuộc rút quân, từ tháng 4 năm 1970 đến tháng 4 năm 1971, sẽ làm giảm tổng số quân của Hoa Kỳ thêm 150.000. Đến cuối năm 1970, chỉ còn khoảng 344.000 lính Mỹ ở lại miền Nam. Sư đoàn Bộ binh số 9, Lữ đoàn số 3 của Sư đoàn Nhảy dù số 82, Sư đoàn Bộ binh số 1, Sư đoàn Thủy quân Lục chiến số 3, hai lữ đoàn của Sư đoàn Bộ binh số 25 và toàn bộ Sư đoàn Bộ binh số 4 đã được tái bố trí (bảng 5 mô tả lịch trình rút quân của Hoa Kỳ khỏi Nam Việt Nam). Khi các lực lượng Hoa Kỳ này chuẩn bị rời đi, họ đã đình chỉ các hoạt động tác chiến và chuyển giao trách nhiệm đối với các khu vực hoạt động tương ứng của họ cho QLVNCH.

Nguồn: Nguyen Duy Hinh, Indochina Monographs: Vietnamization and the Cease-Fire (Washington,D.C.: U.S. Army Center of Military History, 1980), p. 23.
Từ thông báo ban đầu về việc rút quân của Hoa Kỳ vào tháng 6 năm 1969 đến cuối tháng 11 năm 1972, Hoa Kỳ đã mang về nhà 14 đợt, giảm tổng quân số Hoa Kỳ tại Việt Nam từ mức đỉnh điểm là 543.400 xuống còn 27.000 quân (xem bảng 6).

Nguồn: Nguyen Duy Hinh, Indochina Monographs: Vietnamization and the Cease-Fire (Washington, D.C.: U.S. Army Center of Military History, 1980), p. 27.
ABRAMS CHUẨN BỊ BÀN GIAO CUỘC CHIẾN
Như Henry Kissinger đã chỉ ra, việc rút quân của Hoa Kỳ đã tạo ra động lực riêng; bất kỳ nỗ lực nào của tổng thống nhằm sửa đổi lịch trình, kể cả khi ông có thể có khuynh hướng như vậy vì tình hình chiến trường ở Nam Việt Nam, đều gây ra phản ứng mạnh mẽ từ Quốc hội, giới truyền thông và thành phần phản chiến. Do đó, sau khi lực lượng Hoa Kỳ bắt đầu rút quân, QLVNCH buộc phải đảm nhận nhiều trách nhiệm hơn đối với cuộc chiến, bất kể tiến trình Việt Nam hóa và bình định diễn ra như thế nào. Đó là tình hình mà Tướng Abrams phải đối mặt. Trong khi vẫn đang chiến đấu, ông đã phải tăng cường nỗ lực chuẩn bị cho QLVNCH để lấp đầy khoảng trống trên chiến trường do lực lượng Hoa Kỳ tái bố trí để lại. Về cơ bản, ông đang chiến đấu với thời gian. Theo đó, ông hy vọng sẽ duy trì được “năng lực chiến đấu cân bằng và nhiều khả năng nhất có thể trong thời gian dài nhất có thể”.
Khi Abrams tiếp quản quyền chỉ huy MACV từ Tướng Westmoreland vào tháng 7 năm 1968, ông đã nhận ra rằng cần phải làm gì đó để cải thiện năng lực chiến đấu của lực lượng vũ trang Nam Việt Nam. Ngay cả trước khi Tổng thống Nixon tuyên bố Việt Nam hóa là chính sách mới của Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam, Tướng Abrams đã thực hiện các biện pháp để tăng hiệu quả của cơ sở huấn luyện QLVNCH, vốn trước đây không phải là trọng tâm trong nỗ lực của MACV. Abrams đã kế thừa sứ mệnh lâu đời của Hoa Kỳ là kết thúc và đánh bại Cọng xả để buộc họ phải rút khỏi Nam Việt Nam, nhưng với tuyên bố của Nixon về chính sách Việt Nam hóa của mình, sứ mệnh, như đã mô tả trước đó, và trọng tâm của MACV đã thay đổi mạnh mẽ.
Vào ngày 7 tháng 7 năm 1969, tổng thống đã gặp Kissinger, Laird, Rogers, Wheeler, John Mitchell và Tướng Robert E. Cushman Jr. (một sĩ quan thủy quân lục chiến là phó giám đốc CIA) trên du thuyền tổng thống Sequoia. Mục đích của cuộc họp là thảo luận về sự lắng dịu rõ ràng trong cuộc chiến ở Nam Việt Nam. Số lượng các cuộc tấn công của kẻ thù ở Nam Việt Nam đã giảm sau trận chiến Đồi Thịt Băm, và thương vong của Hoa Kỳ đã đạt mức thấp nhất trong năm. Theo Kissinger, cuộc thảo luận tập trung vào việc xác định lý do tại sao mức độ giao tranh đã giảm xuống—liệu đó có phải do Hà Nội kiệt sức, một chiến lược đàm phán mới, hay một nỗ lực của Hà Nội nhằm đạt được sự xuống thang bằng thỏa thuận ngầm? Kissinger sau đó đã viết, “Đó là triệu chứng của sự nhầm lẫn về mặt trí tuệ vào giai đoạn khi mọi người cảm thấy nhẹ nhõm trước tình hình tạm lắng về quân sự làm giảm cả thương vong và áp lực trong nước, không ai đặt câu hỏi liệu sự tạm lắng có thể không phản ánh thực tế rằng chiến lược của chúng ta đang thành công và do đó nên được tiếp tục hay không.”
Thay vào đó, có “sự nhất trí” rằng tình hình đã mang đến một cơ hội tuyệt vời để đáp lại bằng cách hạ nhiệt các hoạt động của Hoa Kỳ ở Nam Việt Nam; đồng thời, các nỗ lực của MACV có thể được đưa vào nỗ lực Việt Nam hóa một cách thuận lợi. Nixon đã đồng ý và ủy quyền cho Bộ trưởng Quốc phòng Laird ban hành các hướng dẫn mới cho Tướng Abrams.
Kết quả là một tuyên bố sứ mệnh mới cho MACV nhấn mạnh mong muốn của Hoa Kỳ “hỗ trợ Lực lượng vũ trang VNCH tiếp quản ngày càng nhiều các hoạt động chiến đấu”. Tuyên bố sứ mệnh (có hiệu lực vào ngày 15 tháng 8 năm 1969) giao cho Abrams và chỉ huy của ông tập trung vào (1) cung cấp “hỗ trợ tối đa” cho Nam Việt Nam để tăng cường lực lượng của họ, (2) hỗ trợ nỗ lực bình định và (3) giảm lượng tiếp tế cho kẻ thù. Abrams cũng được yêu cầu một lần nữa phải kiềm chế thương vong của Hoa Kỳ. Henry Kissinger sau đó đã báo cáo rằng Nixon đã thay đổi ý định của mình về các lệnh này và cố gắng hủy bỏ chúng. Tuy nhiên, Bộ trưởng Laird cho biết các lệnh đã được gửi đi và chúng được phép có hiệu lực.
Nếu lời kể của Kissinger là chính xác và tổng thống đã cố gắng hủy bỏ các lệnh, Nixon đã không tiết lộ lý do tại sao ông lại suy nghĩ lại về việc thay đổi nhiệm vụ chính thức cho MACV. Có lẽ ông lo ngại về việc can thiệp vào các vấn đề quân sự, hoặc có lẽ ông không muốn báo hiệu cho Bắc Việt rằng Hoa Kỳ đang bắt đầu giảm mức độ cam kết của mình đối với cuộc chiến. Tuy nhiên, tổng thống đã giữ nguyên các lệnh và nhắc lại hướng dẫn mới trực tiếp khi ông có chuyến thăm bất ngờ tới Việt Nam vào cuối tháng 8. Tại đó, ông đã nhấn mạnh sự thay đổi trọng tâm của lực lượng Hoa Kỳ, nói rằng “nhiệm vụ chính của quân đội Hoa Kỳ là cho phép lực lượng Nam Việt Nam đảm nhận toàn bộ trách nhiệm cho an ninh của Nam Việt Nam”. Đáng chú ý là tổng thống đã không công khai hướng dẫn mới này cho đến bài phát biểu trên truyền hình toàn quốc vào tháng 11.
Tướng Abrams, người trước đó đã bày tỏ sự lo ngại về việc tăng tốc rút quân của Hoa Kỳ, đã hiểu được các lệnh hành quân của mình và đã tăng cường các biện pháp để cải thiện khả năng chiến đấu của các đơn vị Nam Việt Nam.