Có Hình ⚡️ 50 năm thống nhất đất Nước | Cách Mỹ Đế đã bỏ rơi Miền Nam Việt Nam by James H. Willbanks!✍️ (P3)

YPOZ3FOP.png

James H. Willbanks

3 QLVNCH trong Hành động

TÌNH HÌNH CHIẾN ĐẤU—1969


Khi Hoa Kỳ bắt đầu thực hiện Chiến lược Việt Nam hóa một cách nghiêm túc, quân số của Nam Việt Nam tăng nhanh chóng, thiết bị mới và hiện đại hơn được chuyển giao, và nỗ lực cố vấn được cải thiện. Tuy nhiên, những nâng cấp này không được thực hiện trong tình trạng hưu chiến — cuộc chiến vẫn tiếp diễn không ngừng. Do đó, quá trình chuyển giao trách nhiệm cho Nam Việt Nam đối với cuộc chiến, bao gồm những thay đổi đã đề cập về cơ cấu lực lượng và các nỗ lực hiện đại hóa và đào tạo sâu rộng, đã diễn ra trong khi cả lực lượng Hoa Kỳ và QLVNCH vẫn tiếp tục giao tranh với Bắc Việt và Việt Cọng Xả trên chiến trường.

Ngay cả khi chính quyền Nixon nhậm chức và bắt đầu xây dựng chiến lược sẽ trở thành Chiến lược Việt Nam hóa, người Cọng Xả đã chứng tỏ rằng mình sẽ không cho tổng thống mới và các cố vấn của ông bất kỳ khoảng trống nào để thở. Bắc Việt đã phát động một cuộc tấn công trên toàn quốc vào tháng 2 năm 1969. Mục tiêu chính của các cuộc tấn công mới là lực lượng và cơ sở của Hoa Kỳ; các tuyến liên lạc và chương trình bình định đóng vai trò là mục tiêu thứ cấp. Mặc dù lực lượng Cọng Xả đã tấn công hơn 125 mục tiêu chính và tiến hành các cuộc tấn công bằng đặc công và súng cối nhỏ hơn vào 400 mục tiêu khác, nhưng họ không đạt được những kết quả đáng kinh ngạc như chiến thuật bất ngờ trong giai đoạn đầu của cuộc tấn công Tết Mậu Thân năm 1968. Lần này, thông tin tình báo tốt hơn của đồng minh và sức mạnh của lực lượng Cọng Xả suy giảm do tổn thất trong cuộc tấn công của năm trước đã giúp các đồng minh đối phó rất hiệu quả với các cuộc tấn công mới. Tuy nhiên, một đợt thương vong gia tăng của đồng minh đã thúc đẩy Nixon đáp trả vào tháng 3 bằng cách ra lệnh ném bom bí mật vào các khu căn cứ địa của Cọng Xả ở Campuchia.


Khả năng ném bom vào nơi tập kết của Bắc Việt ở Campuchia đã được thảo luận trong một thời gian. Tuy nhiên, Bộ trưởng Quốc phòng Laird phản đối lựa chọn này vì đây là cơn ác mộng chính trị tiềm tàng đối với chính quyền và kêu gọi mạnh mẽ tổng thống theo đuổi chính sách Việt Nam hóa và đẩy nhanh việc rút quân Mỹ. Luôn luôn nhạy bén với tình hình chính trị trong nước, Laird phản đối việc mở rộng chiến tranh theo bất kỳ cách nào và tin rằng việc ném bom Campuchia sẽ phản tác dụng đối với nỗ lực rút Hoa Kỳ khỏi cuộc chiến. Kissinger đồng ý, khuyên Nixon nên cho các cuộc đàm phán một cơ hội. Tuy nhiên, khi lực lượng Cọng Xả tấn công Sài Gòn bằng một cuộc pháo kích tên lửa vào tháng 3, Nixon đã bật đèn xanh cho Chiến dịch Menu, cuộc ném bom bí mật Campuchia. Trong 15 tháng tiếp theo, 3.630 cuộc không kích B-52 bí mật đã được tiến hành vào các vị trí bị nghi ngờ là căn cứ địa Cọng Xả ở Campuchia. Các sự kiện cuối cùng đã chứng minh sự khôn ngoan trong lời khuyên của Laird chống lại bất kỳ nỗ lực bí mật nào nhằm mở rộng cuộc chiến. Mặc dù có khả năng gây ra hậu quả chính trị thảm khốc, nhưng cuộc ném bom bí mật đã có tác động tích cực về lâu dài theo nghĩa thuần túy quân sự, vì nó làm giảm khả năng hỗ trợ từ bên ngoài cho lực lượng Cọng Xả ở Nam Việt Nam.

Nhận ra rằng thời gian là vô cùng quý giá khi ông hoàn thiện chính sách Việt Nam hóa, Nixon hy vọng rằng cuộc ném bom bí mật sẽ làm suy yếu lực lượng Cọng Xả ở miền Nam và tạo thêm thời gian để chính sách mới có hiệu lực.

Tương tự như vậy, Tướng Abrams, khi cố gắng tạo ra một bức màn bảo vệ cho nỗ lực Việt Nam hóa, đã ra lệnh cho lực lượng Hoa Kỳ giữ cho Bắc Việt và Việt Cọng Xả mất cân bằng để ngăn chặn họ tiến hành bất kỳ hành động kéo dài nào có thể cản trở quá trình nâng cấp QLVNCH để đảm nhận trách nhiệm lớn hơn đối với cuộc chiến. Abrams đã chia lực lượng của mình thành các lực lượng đặc nhiệm nhỏ cấp trung đội và cấp đại đội và ra lệnh cho họ tập trung vào các hoạt động tuần tra và hoạt động ban đêm rộng rãi, một chiến thuật mà ông mô tả là “xâm nhập vào hệ thống của kẻ thù”.

Tuy nhiên, việc nhấn mạnh vào các hoạt động của đơn vị nhỏ không có nghĩa là chấm dứt các trận chiến quy mô lớn có sự tham gia của quân đội Hoa Kỳ. Khi Tổng thống Nixon và các cố vấn của ông chuẩn bị cuối cùng để công bố việc khởi xướng Việt Nam hóa tại Midway, Sư đoàn Không vận 101 đã phát động một cuộc tấn công vào Thung lũng A Shau trong nỗ lực dọn sạch Khu căn cứ 611 của Bắc Việt, một khu vực hỗ trợ hậu cần chính của Cọng Xả. Chiến dịch này là sự tiếp nối của Chiến dịch Dewey Canyon, được tiến hành tại cùng khu vực vào đầu năm bởi các thành phần của Sư đoàn Thủy quân Lục chiến số 1. Lính nhảy dù của Sư đoàn 101 đã đụng độ với một lực lượng địch lớn và một trận chiến lớn đã xảy ra tại Đồi Ấp Bia (Đồi 939), sau này được gọi là Đồi Thịt Băm.” Trận này khiến 56 người Mỹ thiệt mạng và 630 quân địch chết. Trận chiến, mặc dù là một thắng lợi về mặt chiến thuật trong việc giữ cho quân BV mất cân bằng, đã gây ra sự phản đối dữ dội của công chúng tại Hoa Kỳ về thương vong nặng nề của người Mỹ và bản chất dường như vô nghĩa của một cuộc giết chóc chứng kiến một cảnh máu đổ thịt rơi chỉ để binh lính Hoa Kỳ rời bỏ chiến trường ngay sau khi cuộc chiến kết thúc. Báo chí Hoa Kỳ đã đưa tin rộng rãi về bình luận của Thượng nghị sĩ Edward Kennedy cho rằng trận chiến là “vô nghĩa và vô trách nhiệm” và lời cáo buộc của ông rằng “Tổng thống Nixon đã nói với chúng ta, không nghi ngờ gì nữa, rằng chúng ta không tìm kiếm chiến thắng quân sự, rằng chúng ta chỉ tìm kiếm hòa bình. Làm sao chúng ta có thể biện minh cho việc gửi những chàng trai của mình đến một ngọn đồi hàng chục lần, cuối cùng chiếm được nó, rồi lại rút lui một tuần sau đó?” Tờ New York Times cho biết sau trận chiến, “Công chúng chắc chắn có quyền đặt câu hỏi về thái độ hung bạo hiện tại của quân đội Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam.” Nhiều người Mỹ coi trận chiến Đồi Thịt Băm là biểu tượng cho sự thất bại của chính quyền Nixon trong việc thực hiện bất kỳ thay đổi đáng kể nào đối với cách tiếp cận của Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam, và tổng thống đã bị chỉ trích gay gắt vì dường như thiếu chiến lược.

Để đáp lại những người ngày càng mệt mỏi vì sinh mạng người Mỹ liên tục mất đi vì những bất động sản dường như vô nghĩa, Nixon và Laird đã chuẩn bị công bố kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh như một bước dạo đầu cho một cuộc rút quân có trật tự của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, chính quyền cần thời gian để thiết lập chính sách mới, và Nixon, mong muốn đạt được “hòa bình trong danh dự”, phải đảm bảo rằng không còn các Đồi Thịt Băm nào nữa. Theo đó, ông đã gửi lời tới Abrams để thực hiện các biện pháp nhằm hạn chế thương vong của Hoa Kỳ.

HOA KỲ RÚT QUÂN

Ngay sau khi các đơn vị Hoa Kỳ giao tranh với kẻ thù tại Đồi Thịt Băm và trong khi giao tranh vẫn tiếp diễn tại nhiều điểm nóng khác trên toàn miền Nam, Tổng thống Nixon đã công bố chính sách Việt Nam hóa và các kế hoạch liên quan nhằm giảm số lượng quân chiến đấu của Hoa Kỳ tại Việt Nam. Bây giờ Abrams phải vật lộn với vấn đề hóc búa về cách chuẩn bị cho lực lượng Nam Việt Nam tiếp quản ngay cả khi ông vẫn tiếp tục tiến hành chiến tranh trên chiến trường. Cả hai nhiệm vụ đòi hỏi này đều phải được giải quyết trong khi Tổng thống Nixon và Bộ trưởng Laird tiếp tục thúc đẩy việc cắt giảm quân số lớn hơn và nhanh hơn.

Như đã lưu ý trước đó, các cuộc thảo luận về việc rút quân của Hoa Kỳ đã bắt đầu ngay sau lễ nhậm chức của Tổng thống Nixon. Trên đường đến Midway vào tháng 6 năm 1969 để công bố việc khởi xướng Việt Nam hóa, các thành viên của chính quyền đã tổ chức một cuộc họp tại Honolulu để đưa ra chiến lược rút quân. Những người tham dự bao gồm Nixon, Kissinger, Laird, Ngoại trưởng Rogers, Đại sứ Ellsworth Bunker và Henry Cabot Lodge, Tướng Earle Wheeler và Tướng Abrams. Kissinger ghi lại rằng “quân đội đã tiếp cận vấn đề [rút quân] với tâm trạng nặng nề. . . . điều đó sẽ khiến chiến thắng trở nên bất khả thi và ngay cả một kết quả đáng trân trọng cũng trở nên có vấn đề.” Trước cuộc họp này, Tướng Abrams đã đặt câu hỏi về quy mô và tốc độ của bất kỳ cuộc rút quân nào được dự kiến. Theo người viết tiểu sử Lewis Sorley của Abrams, vị chỉ huy Hoa Kỳ tin rằng quân đội của mình đang bắt đầu đạt được nhiều thành công hơn trong việc chống lại lực lượng Cọng xả và tất nhiên muốn giữ họ lại để tận dụng lợi thế. Tuy nhiên, Sorley cho rằng, Abrams “cũng đủ nhạy cảm để hiểu được thực tế chính trị tại Hoa Kỳ và những gì chúng báo hiệu nếu cứ tiếp tục theo đuổi cuộc chiến”. Do đó, sau khi quyết định bắt đầu việc rút quân, Abrams đã hết lòng ủng hộ, nhận ra rằng cam kết của Hoa Kỳ phải được thu hẹp để chuyển giao cuộc chiến cho miền Nam. Tuy nhiên, vị chỉ huy Hoa Kỳ vẫn còn lo ngại về thời điểm và sự khôn ngoan của việc rút quân khi sức mạnh của kẻ thù dường như đang suy yếu. Đáp lại, Tướng Wheeler đã đảm bảo với Abrams trong hai lần riêng biệt rằng bất kỳ cuộc tái bố trí nào của Hoa Kỳ cũng sẽ cân nhắc đến tình hình trên chiến trường.

Bất chấp những lo ngại của vị chỉ huy tác chiến, tổng thống đã quyết định công bố đợt rút quân đầu tiên tại Midway và tiến hành việc rút quân của Hoa Kỳ. Việc cắt giảm thêm sẽ dựa trên ba tiêu chí: mức độ hoạt động của kẻ thù, tiến triển trong các cuộc đàm phán hòa bình Paris và mức độ tăng cường QLVNCH. Kissinger đã viết: “Từ nay trở đi, chúng ta [Hoa Kỳ] sẽ chạy đua giữa mức cắt giảm khả năng chiến đấu của chúng ta và mức cải thiện lực lượng Nam Việt Nam—một cuộc đua mà kết quả cùng lắm là không chắc chắn.”

Tuy nhiên, sau khi Nixon tuyên bố đợt rút quân đầu tiên của Hoa Kỳ tại Midway, ông đã “hớn hở” và coi thông báo này là một “chiến thắng chính trị.” Ông nghĩ rằng nó sẽ đạt được một số mục tiêu quan trọng. Đầu tiên, ông hy vọng đợt rút quân đầu tiên sẽ xoa dịu phe phản chiến luôn chỉ trích và mua thời gian cho chính quyền để tiếp tục phát triển chiến lược của mình; thứ hai, ông nghĩ là nó sẽ gửi một tín hiệu đến Bắc Việt rằng Hoa Kỳ nghiêm túc về việc tìm kiếm hòa bình ở Đông Nam Á. Nixon và các cố vấn của ông sẽ cho thấy là mình đã sai lầm về mọi mặt.


Cựu bộ trưởng quốc phòng Clark Clifford đã đưa cho Nixon và Laird động lực mới để mở rộng kế hoạch rút quân của Hoa Kỳ. Vào tháng 7 năm 1969, ông đã đăng một bài báo trên Foreign Affairs kêu gọi rút quân đơn phương 100.000 người vào cuối năm và tất cả nhân sự khác vào cuối năm 1970, chỉ để lại nhân viên hậu cần và không quân. Nixon, người không bao giờ chùn bước trước một thách thức, đã tuyên bố tại một cuộc họp báo rằng ông có thể cải thiện lịch trình của Clifford. Tuyên bố của tổng thống đã nhận được rất nhiều sự chú ý của báo chí và thực sự cam kết Hoa Kỳ sẽ đơn phương rút quân khỏi Nam Việt Nam, do đó xóa bỏ lời hứa cắt giảm quân đội như một con bài mặc cả cho Kissinger trong các giao dịch của ông với Bắc Việt tại Paris. Hậu quả đối với các cuộc đàm phán hòa bình và thỏa thuận ngừng bắn cuối cùng sẽ rất nghiêm trọng.


Lần tái bố trí (một mỹ từ chỉ việc rút quân) đầu tiên 25.000 quân Hoa Kỳ do Tổng thống Nixon hứa đã hoàn thành vào ngày 27 tháng 8 năm 1969, khi những người lính cuối cùng từ lữ đoàn 1 và 2 của Sư đoàn Bộ binh số 9 rời khỏi Đồng bằng sông Cửu Long. Trong những tháng sau thông báo Midway, các cuộc thảo luận vẫn tiếp tục về quy mô và tốc độ rút quân của Hoa Kỳ. Laird đã đưa ra một số phương án cho phần còn lại của năm 1969, dao động từ mức thấp nhất là 50.000 quân đến mức cao nhất là 100.000 quân; ở giữa là nhiều sự kết hợp khác nhau về số lượng và lực lượng. Trong một bản ghi nhớ gửi cho tổng thống, Laird đã cảnh báo ông ta phải cẩn thận về việc rút quân quá nhiều và quá nhanh, vì điều này sẽ gây ra hậu quả nghiêm trọng cho chương trình bình định. Lời cảnh báo của Laird đã được chứng minh là kịp thời. Vào ngày 6 tháng 8, khi những người lính từ Sư đoàn Bộ binh số 9 chuẩn bị rời khỏi Nam Việt Nam, người Cọng xả đã tấn công Vịnh Cam Ranh, năm ngày sau đó là các cuộc tấn công bổ sung vào hơn 100 thành phố, thị trấn và căn cứ trên khắp miền Nam. Dữ liệu lịch sử chính thức của Bắc Việt về cuộc chiến đã tiết lộ rằng Bộ Chính trị tại Hà Nội đã kết luận sau thông báo của Midway rằng Hoa Kỳ đã “mất đi ý chí chiến đấu ở Việt Nam”; do đó, phe Cọng xả, tin rằng họ đang ở vị trí có thể quyết định mức độ và cường độ của cuộc chiến, đã phát động một loạt các cuộc tấn công mới.

Khi Nixon đưa ra thông báo của mình vào tháng 6 về đợt rút quân ban đầu của Hoa Kỳ, ông nhấn mạnh rằng mức độ hoạt động của kẻ thù sẽ là một trong những tiêu chí để cắt giảm thêm. Những cuộc tấn công mới của Cọng xả này rõ ràng đã đi ngược lại các điều kiện của Nixon; thông báo tiếp theo của ông rằng ông đang trì hoãn một quyết định về việc rút quân bổ sung đã gây ra sự náo động trong cả Quốc hội và giới truyền thông. Vào ngày 12 tháng 9, Hội đồng An ninh Quốc gia đã họp để thảo luận về tình hình. Kissinger báo cáo rằng “một phản ứng rất tự nhiên từ chúng tôi sẽ là ngừng đưa quân về nước, nhưng đến giờ việc rút quân đã có được động lực riêng của nó.” Kissinger đã gửi cho tổng thống một bản ghi nhớ hai ngày trước cuộc họp, bày tỏ mối quan ngại về hướng đi hiện tại” của chính quyền tại Nam Việt Nam. Ông cảnh báo rằng “Việc rút quân của Hoa Kỳ sẽ trở nên giống như ăn đậu phộng muối đối với công chúng Hoa Kỳ; càng có nhiều quân đội Hoa Kỳ về nước, thì càng có nhiều yêu cầu rút quân thêm. Về cơ bản, điều này có thể dẫn đến các yêu cầu rút quân đơn phương. . . . Càng có nhiều quân nhân được rút đi, Hà Nội sẽ càng được nước làm tới.” Thời gian sẽ chứng minh Kissinger đúng, nhưng trong cuộc họp của Hội đồng An ninh Quốc gia, ông là người duy nhất phản đối quyết định tiến hành việc cắt giảm quân theo lịch trình. Vào ngày 16 tháng 9, Nixon đã ra lệnh rút thêm 35.000 quân Mỹ vào tháng 12. Theo Kissinger, việc rút quân trở nên “không thể tránh khỏi… [và] Tổng thống không bao giờ cho phép thời hạn một đợt rút quân kết thúc mà không công bố một đợt điều động mới tiếp theo”.


Vào ngày 15 tháng 12, Nixon đã ra lệnh điều động thêm 50.000 quân về nước lần thứ ba trước tháng 4 năm 1970. Vào ngày 20 tháng 4 năm 1970, mặc dù ông tuyên bố 110.000 quân Mỹ đã được về nước trong ba đợt điều động đầu tiên, nhưng thực tế đã có tổng cộng 115.000 quân rời khỏi Việt Nam. Giai đoạn thứ hai của cuộc rút quân, từ tháng 4 năm 1970 đến tháng 4 năm 1971, sẽ làm giảm tổng số quân của Hoa Kỳ thêm 150.000. Đến cuối năm 1970, chỉ còn khoảng 344.000 lính Mỹ ở lại miền Nam. Sư đoàn Bộ binh số 9, Lữ đoàn số 3 của Sư đoàn Nhảy dù số 82, Sư đoàn Bộ binh số 1, Sư đoàn Thủy quân Lục chiến số 3, hai lữ đoàn của Sư đoàn Bộ binh số 25 và toàn bộ Sư đoàn Bộ binh số 4 đã được tái bố trí (bảng 5 mô tả lịch trình rút quân của Hoa Kỳ khỏi Nam Việt Nam). Khi các lực lượng Hoa Kỳ này chuẩn bị rời đi, họ đã đình chỉ các hoạt động tác chiến và chuyển giao trách nhiệm đối với các khu vực hoạt động tương ứng của họ cho QLVNCH.

TrVDTxe.png

Nguồn: Nguyen Duy Hinh, Indochina Monographs: Vietnamization and the Cease-Fire (Washington,D.C.: U.S. Army Center of Military History, 1980), p. 23.
Từ thông báo ban đầu về việc rút quân của Hoa Kỳ vào tháng 6 năm 1969 đến cuối tháng 11 năm 1972, Hoa Kỳ đã mang về nhà 14 đợt, giảm tổng quân số Hoa Kỳ tại Việt Nam từ mức đỉnh điểm là 543.400 xuống còn 27.000 quân (xem bảng 6).
YnUb6c29.png

Nguồn: Nguyen Duy Hinh, Indochina Monographs: Vietnamization and the Cease-Fire (Washington, D.C.: U.S. Army Center of Military History, 1980), p. 27.


ABRAMS CHUẨN BỊ BÀN GIAO CUỘC CHIẾN

Như Henry Kissinger đã chỉ ra, việc rút quân của Hoa Kỳ đã tạo ra động lực riêng; bất kỳ nỗ lực nào của tổng thống nhằm sửa đổi lịch trình, kể cả khi ông có thể có khuynh hướng như vậy vì tình hình chiến trường ở Nam Việt Nam, đều gây ra phản ứng mạnh mẽ từ Quốc hội, giới truyền thông và thành phần phản chiến. Do đó, sau khi lực lượng Hoa Kỳ bắt đầu rút quân, QLVNCH buộc phải đảm nhận nhiều trách nhiệm hơn đối với cuộc chiến, bất kể tiến trình Việt Nam hóa và bình định diễn ra như thế nào. Đó là tình hình mà Tướng Abrams phải đối mặt. Trong khi vẫn đang chiến đấu, ông đã phải tăng cường nỗ lực chuẩn bị cho QLVNCH để lấp đầy khoảng trống trên chiến trường do lực lượng Hoa Kỳ tái bố trí để lại. Về cơ bản, ông đang chiến đấu với thời gian. Theo đó, ông hy vọng sẽ duy trì được “năng lực chiến đấu cân bằng và nhiều khả năng nhất có thể trong thời gian dài nhất có thể”.


Khi Abrams tiếp quản quyền chỉ huy MACV từ Tướng Westmoreland vào tháng 7 năm 1968, ông đã nhận ra rằng cần phải làm gì đó để cải thiện năng lực chiến đấu của lực lượng vũ trang Nam Việt Nam. Ngay cả trước khi Tổng thống Nixon tuyên bố Việt Nam hóa là chính sách mới của Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam, Tướng Abrams đã thực hiện các biện pháp để tăng hiệu quả của cơ sở huấn luyện QLVNCH, vốn trước đây không phải là trọng tâm trong nỗ lực của MACV. Abrams đã kế thừa sứ mệnh lâu đời của Hoa Kỳ là kết thúc và đánh bại Cọng xả để buộc họ phải rút khỏi Nam Việt Nam, nhưng với tuyên bố của Nixon về chính sách Việt Nam hóa của mình, sứ mệnh, như đã mô tả trước đó, và trọng tâm của MACV đã thay đổi mạnh mẽ.


Vào ngày 7 tháng 7 năm 1969, tổng thống đã gặp Kissinger, Laird, Rogers, Wheeler, John Mitchell và Tướng Robert E. Cushman Jr. (một sĩ quan thủy quân lục chiến là phó giám đốc CIA) trên du thuyền tổng thống Sequoia. Mục đích của cuộc họp là thảo luận về sự lắng dịu rõ ràng trong cuộc chiến ở Nam Việt Nam. Số lượng các cuộc tấn công của kẻ thù ở Nam Việt Nam đã giảm sau trận chiến Đồi Thịt Băm, và thương vong của Hoa Kỳ đã đạt mức thấp nhất trong năm. Theo Kissinger, cuộc thảo luận tập trung vào việc xác định lý do tại sao mức độ giao tranh đã giảm xuống—liệu đó có phải do Hà Nội kiệt sức, một chiến lược đàm phán mới, hay một nỗ lực của Hà Nội nhằm đạt được sự xuống thang bằng thỏa thuận ngầm? Kissinger sau đó đã viết, “Đó là triệu chứng của sự nhầm lẫn về mặt trí tuệ vào giai đoạn khi mọi người cảm thấy nhẹ nhõm trước tình hình tạm lắng về quân sự làm giảm cả thương vong và áp lực trong nước, không ai đặt câu hỏi liệu sự tạm lắng có thể không phản ánh thực tế rằng chiến lược của chúng ta đang thành công và do đó nên được tiếp tục hay không.”

Thay vào đó, có “sự nhất trí” rằng tình hình đã mang đến một cơ hội tuyệt vời để đáp lại bằng cách hạ nhiệt các hoạt động của Hoa Kỳ ở Nam Việt Nam; đồng thời, các nỗ lực của MACV có thể được đưa vào nỗ lực Việt Nam hóa một cách thuận lợi. Nixon đã đồng ý và ủy quyền cho Bộ trưởng Quốc phòng Laird ban hành các hướng dẫn mới cho Tướng Abrams.


Kết quả là một tuyên bố sứ mệnh mới cho MACV nhấn mạnh mong muốn của Hoa Kỳ “hỗ trợ Lực lượng vũ trang VNCH tiếp quản ngày càng nhiều các hoạt động chiến đấu”. Tuyên bố sứ mệnh (có hiệu lực vào ngày 15 tháng 8 năm 1969) giao cho Abrams và chỉ huy của ông tập trung vào (1) cung cấp “hỗ trợ tối đa” cho Nam Việt Nam để tăng cường lực lượng của họ, (2) hỗ trợ nỗ lực bình định và (3) giảm lượng tiếp tế cho kẻ thù. Abrams cũng được yêu cầu một lần nữa phải kiềm chế thương vong của Hoa Kỳ. Henry Kissinger sau đó đã báo cáo rằng Nixon đã thay đổi ý định của mình về các lệnh này và cố gắng hủy bỏ chúng. Tuy nhiên, Bộ trưởng Laird cho biết các lệnh đã được gửi đi và chúng được phép có hiệu lực.


Nếu lời kể của Kissinger là chính xác và tổng thống đã cố gắng hủy bỏ các lệnh, Nixon đã không tiết lộ lý do tại sao ông lại suy nghĩ lại về việc thay đổi nhiệm vụ chính thức cho MACV. Có lẽ ông lo ngại về việc can thiệp vào các vấn đề quân sự, hoặc có lẽ ông không muốn báo hiệu cho Bắc Việt rằng Hoa Kỳ đang bắt đầu giảm mức độ cam kết của mình đối với cuộc chiến. Tuy nhiên, tổng thống đã giữ nguyên các lệnh và nhắc lại hướng dẫn mới trực tiếp khi ông có chuyến thăm bất ngờ tới Việt Nam vào cuối tháng 8. Tại đó, ông đã nhấn mạnh sự thay đổi trọng tâm của lực lượng Hoa Kỳ, nói rằng “nhiệm vụ chính của quân đội Hoa Kỳ là cho phép lực lượng Nam Việt Nam đảm nhận toàn bộ trách nhiệm cho an ninh của Nam Việt Nam”. Đáng chú ý là tổng thống đã không công khai hướng dẫn mới này cho đến bài phát biểu trên truyền hình toàn quốc vào tháng 11.


Tướng Abrams, người trước đó đã bày tỏ sự lo ngại về việc tăng tốc rút quân của Hoa Kỳ, đã hiểu được các lệnh hành quân của mình và đã tăng cường các biện pháp để cải thiện khả năng chiến đấu của các đơn vị Nam Việt Nam.
 
Vấn đề này không phải là mới đối với Abrams, người, kể từ khi nắm quyền chỉ huy vào năm 1968, đã quan tâm đến những gì về cơ bản là hai cuộc chiến khác nhau do lực lượng Hoa Kỳ và Nam Việt Nam tiến hành. Abrams đã tìm cách chấm dứt sự phân chia vai trò và nhiệm vụ giữa lực lượng chiến đấu của Hoa Kỳ và miền Nam thông qua việc áp dụng một chiến lược đồng minh kết hợp duy nhất, do đó loại bỏ “sự tồn tại ngầm của hai chiến lược riêng biệt, tiêu hao và bình định.” Ông mô tả cách tiếp cận này là “một chiến lược tập trung vào việc bảo vệ người dân để chính quyền dân sự có thể thiết lập quyền lực của mình trái ngược với quan niệm trước đó về mục đích của cuộc chiến—tiêu diệt lực lượng của kẻ thù.” Khái niệm “một cuộc chiến” đã được chính thức hóa trong Kế hoạch Mục tiêu của MACV được phê duyệt vào tháng 3 năm 1969.


Abrams và Đại sứ Bunker đã thuyết phục Tổng thống Thiệu rằng cách tiếp cận của Abrams là cách đúng đắn để tiến hành và đảm bảo sự đồng ý của ông rằng Kế hoạch Mục tiêu của MACV sẽ là cơ sở cho các nỗ lực của lực lượng đồng minh tại Nam Việt Nam. Quyết định này được chính thức đưa ra khi Abrams và Tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng Liên quân miền Nam, ký Kế hoạch Chiến dịch Kết hợp, trong đó nêu rõ rằng “QLVNCH phải tham gia đầy đủ trong khả năng của mình vào mọi loại hoạt động… để chuẩn bị cho thời điểm phải gánh vác toàn bộ trách nhiệm.” Kế hoạch này tiếp tục xác định an ninh nhân dân và hỗ trợ bình định là mục tiêu chính của lực lượng Hoa Kỳ và Nam Việt Nam.


Ngay sau khi kế hoạch mới được ký kết, Abrams bắt đầu đảm bảo rằng lực lượng MACV hoàn toàn chấp nhận khái niệm “một cuộc chiến” của ông, xóa bỏ mãi mãi sự phân công lao động vốn thường làm chia rẽ các nỗ lực của đồng minh. Abrams đã bắt đầu chuyển trọng tâm của MACV khi ông nhận được lệnh thay đổi nhiệm vụ chính thức từ Tổng thống Nixon. Được trang bị chiến lược kết hợp “một cuộc chiến” mới và được tổng tư lệnh thúc đẩy Việt Nam hóa chiến tranh, Abrams hy vọng sẽ kiểm soát được tình hình chiến đấu đồng thời chuyển giao trách nhiệm chính trong cuộc chiến cho Nam Việt Nam khi quân đội Mỹ rút quân ngày càng nhiều về quy mô và tần suất. Vào thời điểm Abrams nhận được lệnh mới, ông đã khởi xướng các chương trình mở rộng cơ cấu lực lượng của QLVNCH và cung cấp nhiều vũ khí hiện đại hơn cho Nam Việt Nam, như đã thảo luận ở trên. Trong khi những cải tiến này đang được thực hiện, Abrams tập trung vào việc tăng cường khả năng chiến đấu của QLVNCH trên chiến trường, một phần bằng cách để quân đội miền Nam chiến đấu song song với quân đội Mỹ trong các hoạt động kết hợp trên chiến trường. Các đơn vị của Hoa Kỳ và Nam Việt Nam đã tiến hành các hoạt động kết hợp trước khi áp dụng chính sách “một cuộc chiến” vào năm 1969, nhưng trong các hoạt động trước đó, quân đội Nam Việt Nam thường đóng vai trò hỗ trợ thứ cấp, vai trò ở ngoại vi của hành động chính. Nhiều chỉ huy tác chiến người Mỹ không muốn hợp tác hoạt động với các đơn vị miền Nam và thường coi QĐVNCH không hơn gì “một gánh nặng bổ sung” phải mang theo, “có khả năng gây ra vấn đề… hơn là hữu ích.” Mặc dù tình hình đã thay đổi theo hướng tốt hơn sau cuộc tấn công Tết Mậu Thân năm 1968, Abrams, đối mặt với nhiệm vụ cấp bách là Việt Nam hóa chiến tranh, đã ra lệnh hợp tác chặt chẽ hơn giữa lực lượng Mỹ và miền Nam. Hy vọng là các đơn vị Mỹ sẽ đóng vai trò là mô hình cho binh lính Sài Gòn bằng cách tích hợp chặt chẽ hơn các hoạt động của hai lực lượng quốc gia. Sự tích hợp như vậy đã hoạt động rất tốt ở Hàn Quốc và cuối cùng đã cải thiện khả năng chiến đấu của lực lượng vũ trang Cộng hòa Hàn Quốc. Abrams và các cố vấn của ông rõ ràng hy vọng rằng mô hình Hàn Quốc cũng sẽ có hiệu quả với Nam Việt Nam. Khi lực lượng Nam Việt Nam trở nên có năng lực hơn trên chiến trường, họ có thể gánh vác một phần gánh nặng lớn hơn khi lực lượng chiến đấu của Hoa Kỳ liên tục được rút đi.

Một cựu tướng lĩnh QĐVNCH đã mô tả cách tiếp cận này, lưu ý rằng bằng cách tham gia vào các hoạt động chiến đấu cùng với các đơn vị Hoa Kỳ, lực lượng Việt Nam—bao gồm cả quân chính quy và quân lãnh thổ—sẽ có được kinh nghiệm thực tế và giá trị mà một trung tâm huấn luyện khó có thể cung cấp được. Do đó, các hoạt động kết hợp và chung không chỉ mang đến cho các đơn vị QĐVNCH cơ hội quan sát các phương pháp tác chiến của Hoa Kỳ, cách Hoa Kỳ sử dụng hỏa lực, các tài sản cơ động và khả năng chỉ huy trong hành động, mà còn mang lại những lợi ích phụ trợ từ sự hỗ trợ chiến đấu bổ sung, mà nếu không thì không thể có được từ các nguồn lực của Việt Nam. Thực tế, đây là một hình thức đào tạo tại chỗ hoặc trong hành động rất đặc biệt, trong đó các đơn vị Hoa Kỳ đóng vai trò hướng dẫn thông qua các ví dụ thực tế, tích cực về các hành động tác chiến và phản công trong nhiều tình huống chiến thuật và loại địa hình khác nhau; trong khi các đơn vị QĐVNCH dưới sự chỉ huy của họ được hưởng lợi từ việc quan sát và noi theo các đơn vị Hoa Kỳ.


Thật không may, sáng kiến đưa quân đội Nam Việt Nam vào nỗ lực chiến đấu chính thường không đồng đều và thay đổi tùy theo từng vùng chiến thuật của quân đoàn. Có một số lý do có thể giải thích cho điều này. Một số chỉ huy cấp cao của Hoa Kỳ có thái độ cảnh giác đối với binh lính miền Nam và khái niệm “một cuộc chiến” của Abrams. Tuy nhiên, Tướng Davidson, sĩ quan tình báo J-2 của Abrams tại MACV, đã phản đối việc đổ lỗi thái độ cảnh giác này cho những thiếu sót trong nỗ lực Việt Nam hóa. Ông viết: “Nó đã trở thành sự hiểu biết thông thường rằng khái niệm mới đã bị ảnh hưởng nghiêm trọng vì các chỉ huy cấp cao của Abrams từ chối ủng hộ nó. Điều này là vô lý. Trong nhiều trường hợp, các sĩ quan cấp tướng ở Việt Nam đồng ý với chiến lược của Abrams và thực hiện với sự tận tụy. Ngay cả những người không đồng ý với khái niệm này cũng tận tâm, dù không nhiệt tình, đã ủng hộ hết mình. Bản thân Abrams sẽ không chấp nhận ít hơn, và ông có quyền thực thi.” Davidson có thể đã giảm nhẹ sự phản đối đối với kế hoạch; không rõ liệu tất cả các chỉ huy cấp cao của Abrams có nghĩ rằng khái niệm mới của ông là một ý tưởng hay không, nhưng cũng không thể phủ nhận rằng Abrams đã nắm giữ sự nghiệp của họ trong tay và họ phải ủng hộ ý tưởng của ông hoặc phải chịu hậu quả. Tuy nhiên, một số chỉ huy Hoa Kỳ đã tích cực hơn những người khác trong việc cố gắng thực hiện chương trình mới.


Bản thân Nam Việt Nam cũng là một yếu tố khác góp phần vào những kết quả khác biệt của chương trình mới. Khả năng lãnh đạo, tinh thần chiến đấu và sự nhạy bén về chiến thuật là khác nhau trong toàn bộ lực lượng vũ trang Nam Việt Nam. Không phải mọi đơn vị và chỉ huy QLVNCH đều sẵn sàng giữ lời hứa của mình. Do đó, cách tiếp cận “một cuộc chiến” đã đạt được nhiều thành công hơn ở một số lĩnh vực so với những lĩnh vực khác.
 
“MỘT CUỘC CHIẾN”

Tại Quân đoàn I, Trung tướng Richard G. Stilwell, chỉ huy Quân đoàn XXIV của Hoa Kỳ, đã làm việc rất chặt chẽ với tư lệnh Sư đoàn 1 của QĐVNCH, Thiếu tướng Ngô Quang Trưởng, tích hợp các đơn vị Nam Việt Nam vào các kế hoạch tác chiến như đối tác toàn diện. Theo một hình thức chỉ huy kết hợp giữa Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa, các lực lượng miền Nam đã phối hợp chặt chẽ với Sư đoàn Thủy quân Lục chiến 3 của Hoa Kỳ, Sư đoàn Nhảy dù 101 (Cơ động trên không) và Lữ đoàn 1 của Sư đoàn Bộ binh 5 (Cơ giới) tại các tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên. Sau khi Thiếu tướng Melvin Zais thay thế Stilwell vào cuối năm 1969, vị chỉ huy mới tiếp tục duy trì các hoạt động phối hợp của Stilwell, và các lực lượng Hoa Kỳ khác trong Quân đoàn I đã tăng cường hợp tác với QLVNCH. Tại nửa phía nam của khu vực, Sư đoàn Bộ binh 23 của Hoa Kỳ thường xuyên tiến hành các hoạt động phối hợp với Sư đoàn Bộ binh 2 (QLVNCH) tại các tỉnh Quảng Tín và Quảng Ngãi. Sư đoàn TQLC số 1 của Hoa Kỳ, bảo vệ khu vực Đà Nẵng, đã phối hợp với các lực lượng Khu đặc biệt Quảng-Đà và Trung đoàn Bộ binh 51 của miền Nam. Abrams rất hài lòng với thành tích của các lực lượng miền Nam tại Quân đoàn I; vào năm 1969, ông đã ra lệnh cho Sư đoàn Kỵ binh số 1 của Hoa Kỳ rút về miền Nam, điều chỉnh các lực lượng tác chiến còn lại để tập trung vào mục tiêu an ninh khu vực, đồng thời gửi về Mỹ một trong hai sư đoàn TQLC Hoa Kỳ đang đóng tại đó.


Tại Quân Khu II, mặc dù các chỉ huy Hoa Kỳ cũng theo đuổi các hoạt động kết hợp, kết quả không mấy khả quan. Trước cuối năm 1968 và đầu năm 1969, sự hợp tác giữa lực lượng Hoa Kỳ và QĐVNCH tại Quân đoàn II phần lớn không hiệu quả. Lực lượng Hoa Kỳ tập trung vào các đơn vị chủ lực của địch ở các khu vực xa xôi thuộc Cao nguyên Trung phần, trong khi lực lượng VNCH chủ yếu hỗ trợ bình định ở các vùng ven biển đất thấp và các trung tâm dân cư. Với việc triển khai khái niệm “một cuộc chiến” của Tướng Abrams, Trung tướng William R. Peers, chỉ huy Lực lượng Dã chiến I, và Trung tướng Lữ Lan, chỉ huy Quân đoàn II, đã nhất trí rằng cần tìm một phương thức để tận dụng lợi thế của mỗi lực lượng quốc gia đồng thời giảm thiểu những bất lợi của họ. Họ cùng nhau triển khai chương trình “Bắt cặp”, yêu cầu mỗi đơn vị QĐVNCH phải kết hợp chặt chẽ và liên tục với một đơn vị đối tác của Hoa Kỳ. Các hoạt động chung sẽ được tiến hành bất kể quy mô của mỗi đơn vị và sự phối hợp sẽ diễn ra từ cấp quân đoàn đến tiểu đoàn và quận. Chương trình “Cặp đôi” nhằm nâng cao hiệu quả chiến đấu của QĐVNCH và chuẩn bị cho các đơn vị Quân đoàn II gánh vác nhiều trách nhiệm tác chiến hơn. Sau đó, chương trình này được nhân rộng để bao gồm cả các đơn vị pháo binh và các lực lượng hỗ trợ chiến đấu khác. Theo chương trình này, Sư đoàn Bộ binh số 4 và Lữ đoàn Nhảy dù số 173 của Hoa Kỳ đã hợp tác với các sư đoàn bộ binh số 22 và 23 của QĐVNCH.


Peers và Lan ra lệnh cho Sư đoàn Bộ binh số 4 của Hoa Kỳ và hai trung đoàn QĐVNCH giữ vững lực lượng Cọng Xả dọc theo biên giới, trong khi họ tập trung vào việc khôi phục và mở rộng quyền kiểm soát của Sài Gòn đối với các khu vực ven biển, bao gồm các tỉnh Bình Định và Phú Yên. Sau khi triển khai chương trình “Cặp đôi”, ba hoạt động phối hợp quan trọng đã được thực hiện tại Quân đoàn II, mỗi hoạt động đạt được mức độ thành công khiêm tốn. Tuy nhiên, cách tiếp cận này không hiệu quả bằng các hoạt động phối hợp tại Quân đoàn I vì một số lý do. Đầu tiên, các sở chỉ huy cấp quân đoàn ở Quân đoàn II không giống như ở Quân đoàn I, khi chúng không được đặt tại cùng một địa điểm, gây khó khăn cho việc phối hợp. Hơn nữa, các chỉ huy chiến trường QĐVNCH tại Quân đoàn II không nhiệt tình làm việc với lực lượng Hoa Kỳ như Thiếu tướng Ngô Quang Trưởng và các chỉ huy cấp dưới của ông ở Quân đoàn I. Mặc dù có một số tiến triển ban đầu trong việc cải thiện sự tự tin và năng lực của các đơn vị QĐVNCH tại Quân đoàn II, chương trình “Cặp đôi” đã bị hủy bỏ vào cuối năm 1969.


Tại Quân Khu IV của Quân đoàn IV (Đồng bằng sông Cửu Long), sự hiện diện chủ yếu của Hoa Kỳ là Sư đoàn Bộ binh số 9, đã đến Việt Nam vào năm 1967. Trước năm 1969, sư đoàn Hoa Kỳ hiếm khi hợp tác với ba sư đoàn QĐVNCH trong khu vực hoặc các đơn vị lãnh thổ ĐPQ/DQ. Thiếu tướng Julian J. Ewell, chỉ huy Sư đoàn Bộ binh số 9, cho rằng lực lượng Nam Việt Nam ở Đồng bằng sông Cửu Long không hiệu quả và cảnh báo rằng miền Nam chưa sẵn sàng để nắm quyền kiểm soát khu vực mà sư đoàn Hoa Kỳ đang hoạt động. Do đó, nhiều người đã ngạc nhiên khi Sư đoàn 9 trở thành sư đoàn đầu tiên được tái bố trí về Mỹ sau thông báo Midway. Jeffrey Clarke chỉ ra rằng, quyết định này, ít nhất là một phần, có tính chất chính trị, nhằm giành được sự ủng hộ cho chính sách Việt Nam hóa của chính quyền Nixon bằng cách thực hiện lời hứa rút quân chiến đấu thay vì chỉ rút nhân sự hỗ trợ. Bất chấp những cảnh báo của Ewell về năng lực quân sự của miền Nam tại Đồng bằng, việc rút Sư đoàn 9 cũng có ý nghĩa chiến lược, khi tình hình địch tại khu vực đã được ổn định sau cuộc tấn công Tết Mậu Thân năm 1968. Đồng bằng sông Cửu Long cũng nằm ở cuối tuyến đường tiếp tế của Bắc Việt và không thể dễ dàng tiếp viện. Nếu có sự cố, Tướng Abrams có thể chuyển lực lượng từ Quân đoàn III gần đó đến khu vực này. Vì vậy, việc rút Sư đoàn 9 chỉ có rủi ro vừa phải về mặt quân sự, và về mặt chính trị, động thái này cho thấy Nixon đã sẵn sàng thực hiện việc rút quân tác chiến.


Việc rút quân khỏi Đồng bằng sông Cửu Long diễn ra nhanh chóng. Lực lượng Hoa Kỳ bắt đầu rút khỏi các hoạt động tác chiến vào tháng 6 năm 1969, và sư đoàn đã rời đi vào cuối tháng 8 (mặc dù một trong ba lữ đoàn vẫn ở lại Việt Nam và được chuyển đến Quân Khu III). Bộ phận công vụ của Quân đội Hoa Kỳ được chỉ thị nhấn mạnh cả những thành tựu của quân đội Hoa Kỳ ra đi và khả năng lực lượng miền Nam tiếp tục hoạt động mà không có họ.


Bất chấp chỉ đạo này, tình hình thực tế lại có phần khác biệt. Khu vực hoạt động của Sư đoàn Bộ binh số 9 trước đây được giao lại cho Sư đoàn Bộ binh số 7 của miền Nam. Như Tướng Ewell đã chỉ ra, Sư đoàn 7 không chuẩn bị đủ để đảm nhận trách nhiệm này vì nhiều lý do, trong đó có sự thiếu hụt lãnh đạo cấp cao. Mặc dù gặp nhiều vấn đề, nhưng may mắn cho cả Washington và Sài Gòn, tình hình địch ở Đồng bằng sông Cửu Long vẫn ổn định vào cuối năm 1969 và 1970, do đó sự kém hiệu quả của Sư đoàn 7 không dẫn đến hậu quả tức thời.


Tại Quân Khu III, chỉ huy Lực lượng Dã chiến II của Hoa Kỳ, Trung tướng Julian Ewell, và người đồng cấp của ông, Trung tướng Đỗ Cao Trí, chỉ huy Quân đoàn III, phải đối mặt với những thử thách lớn. Khu vực này bao gồm 11 tỉnh xung quanh Sài Gòn, có biên giới phía tây giáp các khu căn cứ của Cọng Xả ở Campuchia, với nhiều tuyến đường xâm lược quan trọng vào miền Nam. Mối đe dọa từ Bắc Việt và Việt Cộng vẫn mạnh vào năm 1969 đối với các lực lượng miền Nam tại Quân đoàn III, vốn không phải là một trong những đơn vị mạnh nhất trong QLVNCH. Hơn nữa, quân đội trong khu vực này có xu hướng chỉ tham gia vào nhiệm vụ an ninh khu vực thay vì chủ động tấn công kẻ thù. Tướng Ewell nhận được chỉ thị vào tháng 4 năm 1969 rằng ông sẽ không nhận thêm nguồn lực nào từ Hoa Kỳ và phải thúc đẩy các sư đoàn miền Nam hành quân "bất chấp các chỉ huy của họ."

Ấn tượng với thành công của các hoạt động phối hợp giữa lực lượng Hoa Kỳ và QĐVNCH tại Quân đoàn I, Tướng Ewell quyết định triển khai một chương trình tương tự tại Quân đoàn III. Ông tin rằng chìa khóa để giành chiến thắng ở Việt Nam là áp dụng thành công sức mạnh tác chiến, chẳng hạn như pháo binh, không quân, lục quân và các yếu tố hỗ trợ tác chiến khác. Từ kinh nghiệm làm chỉ huy sư đoàn ở Đồng bằng, ông nhận thấy miền Nam gặp khó khăn trong việc phối hợp sự hỗ trợ hạn chế mà họ có. Để khắc phục điều này, Ewell lên kế hoạch kết hợp mỗi đơn vị chính của miền Nam trong Quân đoàn III với một đơn vị tương tự của Hoa Kỳ, cung cấp sự hỗ trợ không quân, pháo binh, và liên lạc cần thiết để giúp các đơn vị miền Nam trở thành lực lượng có khả năng chiến đấu thực thụ. Đồng thời, ông cũng muốn huấn luyện họ cách sử dụng các loại vũ khí chiến tranh hiệu quả hơn. Trung tướng Đỗ Cao Trí, người đồng cấp của Ewell, hoàn toàn đồng ý với khái niệm này, thừa nhận rằng “vấn đề chính của Quân đoàn II là cải thiện ba sư đoàn VNCH”. Cùng với Ewell, Trí bắt đầu thiết lập một “hệ thống bạn bè” để “ghép” một đơn vị lớn của Hoa Kỳ với mỗi sư đoàn của miền Nam.


Kết quả là một chương trình mang tên “Đồng Tiến”. Ba mục tiêu chính của chương trình này là: (1) tăng số lượng và chất lượng các hoạt động chung được kết hợp và phối hợp; (2) thúc đẩy ba sứ mệnh chính của QĐVNCH, bao gồm hỗ trợ bình định, cải thiện khả năng chiến đấu và tăng cường các hoạt động tác chiến; và (3) tăng cường sử dụng hiệu quả các yếu tố chiến đấu và hỗ trợ chiến đấu quan trọng, đặc biệt là tài sản hàng không của quân đội. Quân đoàn III và Lực lượng Dã chiến II của Hoa Kỳ sẽ hợp tác chặt chẽ liên tục. Khi một quân đoàn VNCH đạt được mức độ hiệu quả chiến đấu thỏa đáng, nó sẽ được loại khỏi chương trình và chuyển sang hoạt động độc lập. Trong khuôn khổ “Đồng Tiến”, các sư đoàn bộ binh Hoa Kỳ số 1 và 25, cùng Lữ đoàn bộ binh nhẹ 199, đã được ghép đôi với các sư đoàn bộ binh 5, 25 và 18 của QĐVNCH. Ở các khu vực biên giới, Sư đoàn Kỵ binh Hoa Kỳ số 1 (Không vận) cũng đã được ghép với Lữ đoàn Dù Việt Nam.

Theo một nghiên cứu sau chiến tranh của trung tướng QĐVNCH Ngô Quang Trường, chương trình “Đồng Tiến” đã cải thiện đáng kể hiệu quả của các đơn vị miền Nam trên khắp Quân đoàn III và họ bắt đầu thể hiện tính hiếu chiến hơn, phối hợp tốt hơn và nỗ lực chiến đấu bền bỉ hơn. Ví dụ, Sư đoàn bộ binh Hoa Kỳ số 1 và 5 của VNCH đã phối hợp rất chặt chẽ với nhau, và các hoạt động phối hợp lặp đi lặp lại đã chuẩn bị cho sư đoàn VNCH đảm nhận khu vực hoạt động của đơn vị Hoa Kỳ khi đơn vị này được tái bố trí vào năm 1970. Khi Sư đoàn VNCH số 5 chuyển sở chỉ huy của mình đến Tỉnh Bình Long và nắm quyền kiểm soát khu vực “Big Red One” cũ, một cột mốc quan trọng trong quá trình Việt Nam hóa đã được thông qua.


Mặc dù các hoạt động phối hợp này gặp nhiều khó khăn và có mức độ thành công khác nhau, nhưng trong hầu hết các trường hợp, chúng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao trình độ tác chiến của các đơn vị QLVNCH. Theo cựu tướng lĩnh Nam Việt Nam Đồng Văn Khuyên, chúng đã giúp mở đường cho các chỉ huy và quân đội miền Nam đảm nhận những trách nhiệm mới khi nhiều lực lượng Hoa Kỳ hơn bắt đầu rút quân. Thật không may, những chương trình này không thể loại bỏ nhiều vấn đề lâu đời ám ảnh QLVNCH và cuối cùng sẽ góp phần vào sự sụp đổ của chế độ Nam Việt Nam. QLVNCH mở rộng đã phải chịu đựng tình trạng thiếu năng lực kỹ thuật, sĩ quan tham mưu yếu kém, thiếu kinh nghiệm trong việc lập kế hoạch và thực hiện các hoạt động vũ trang kết hợp quy mô lớn và một số căn bệnh nghiêm trọng khác. Lãnh đạo, đặc biệt là ở cấp cao, là gốc rễ của mọi điểm yếu của QLVNCH. Như một cựu tướng lĩnh Nam Việt Nam đã viết sau chiến tranh, “Trừ khi một chỉ huy hoặc nhà lãnh đạo có năng lực chuyên môn, lòng tận tụy và tính ngay thẳng về mặt đạo đức, thì chắc chắn ông ta không thể mong đợi cấp dưới của mình tận tụy và quyết chiến. . . . Cuối cùng đã có ý chí và quyết tâm chiến đấu, một lần nữa phụ thuộc vào động lực và sự lãnh đạo, và nếu không có chúng thì không có ý nghĩa gì trong việc nâng cấp các khả năng vật chất đơn thuần.” Vấn đề này khiến Tướng Abrams và các chỉ huy cấp cao của ông rất lo ngại khi họ cố gắng chuẩn bị cho Nam Việt Nam đảm nhận trách nhiệm cho cuộc chiến. Các chương trình như “Cặp đôi ” và “Đồng Tiến” được thiết kế để giúp tăng cường khả năng lãnh đạo và kỹ năng chiến đấu của QLVNCH, nhưng chúng không thể sửa chữa hoàn toàn những căn bệnh lâu dài trong hệ thống Nam Việt Nam.


Mặc dù vẫn còn nhiều khó khăn và lo ngại, Việt Nam hóa đã đạt được tiến triển trong một số lĩnh vực vào cuối năm 1969. Nhờ nỗ lực hiện đại hóa, tất cả các đơn vị QĐVNCH đều được trang bị súng trường M-16, thay thế cho các loại M-1 cũ hơn, nặng hơn, và đã được trang bị súng phóng lựu M-79 và súng máy M-60. Việc tái bố trí quân đội Hoa Kỳ đã buộc QLVNCH phải gánh vác nhiều trách nhiệm hơn trong cuộc chiến, vì số lượng các hoạt động quy mô tiểu đoàn do Nam Việt Nam tiến hành gần như tăng gấp đôi từ năm 1968 đến năm 1969. Dù vậy hiệu suất tác chiến của binh lính miền Nam không đồng đều. Một số đơn vị, như Tiểu đoàn Bộ binh 51 QLVNCH, đã chiến đấu rất ngang ngửa với đối thủ Cọng xả của họ, trong khi những đơn vị khác, như Sư đoàn Bộ binh 22, phần lớn không hiệu quả trên chiến trường (Sư đoàn 22 đã tiến hành 1.800 cuộc phục kích trong những tháng mùa hè năm 1969 và chỉ giết được 6 tên địch).


Văn phòng Thông tin của MACV đã công khai sự tham gia ngày càng tăng của QLVNCH, nhấn mạnh rằng theo thời gian, lực lượng miền Nam sẽ có thể tự mình đứng vững. Bất chấp những tuyên bố này, nhiều cố vấn vẫn cảm thấy người miền Nam vẫn quá phụ thuộc vào sự hỗ trợ của lực lượng Hoa Kỳ và lo lắng về khả năng tự mình gánh vác chiến tranh sau khi người Mỹ rút lui. Các tuyên bố quan hệ công chúng của MACV đúng theo một nghĩa nào đó—rõ ràng là cần phải có thời gian trước khi Nam Việt Nam có thể tự mình đứng vững trước Bắc Việt. Câu hỏi chính đối với nhiều người là có đủ thời gian trước khi tất cả các đơn vị Hoa Kỳ đã rút lui hay không.
 
BÌNH ĐỊNH HÓA

Trong khi lực lượng chính quy Nam Việt Nam đấu tranh để đảm nhận nhiều trách nhiệm hơn cho cuộc chiến chống lại Cọng xả trên chiến trường, nỗ lực bình định, một phần đồng hành của chính sách Việt Nam hóa của Nixon, vẫn tiếp tục trong cuộc chiến giành “trái tim và khối óc” của người dân miền Nam. Việc đặt trọng tâm vào công tác bình định thực sự đã diễn ra trước khi chương trình Việt Nam hóa được khởi xướng. Nền tảng ban đầu cho nỗ lực này đã được đặt ra vào năm 1967 với sự phát triển của chương trình Hoạt động Dân sự và Hỗ trợ Phát triển Nông thôn (CORDS) do Robert W. Komer đứng đầu. Theo truyền thống, chương trình này bị xếp sau cuộc chiến “lớn hơn” trên chiến trường giữa các đơn vị chiến đấu Hoa Kỳ và lực lượng VC và BV. Cú sốc của cuộc tấn công Tết Mậu Thân năm 1968 của Cọng xả làm nổi bật nhu cầu tăng cường các nguồn lực và nỗ lực bình định vùng nông thôn. Người kế nhiệm Komer, William E. Colby, sau đó đã viết rằng Hoa Kỳ “cuối cùng đã phát hiện ra rằng yếu tố chính của cuộc chiến là cuộc chiến ở làng mạc, chứ không phải là cuộc chiến giữa các tiểu đoàn.”


Trong cuộc tấn công của Cọng xả năm 1968, tất cả các lực lượng đã được giao phó tham gia chương trình bình định phải được tái bố trí để bảo vệ các thủ phủ tỉnh và thị trấn huyện. Khi cuộc tấn công của địch kết thúc, chính quyền Sài Gòn một lần nữa chuyển sự chú ý của mình sang việc bảo vệ các vùng nông thôn. Vì vậy, một “Chiến dịch bình định tăng tốc” đặc biệt kéo dài ba tháng đã được phát động vào tháng 11 năm 1968 để “sử dụng phối hợp và đồng bộ tất cả các nguồn lực quân sự, chính quyền và cảnh sát nhằm mang lại an ninh tối đa cho các vùng nông thôn.” Vì chiến dịch ngắn ngủi này đã thành công trên hầu hết các lĩnh vực, nên chính quyền Sài Gòn và các viên chức Hoa Kỳ đã lập ra Kế hoạch Phát triển và Bình định năm 1969 để tận dụng những tiến bộ đã đạt được trong nỗ lực trước đó.


Theo Tướng Abrams, chìa khóa của công cuộc bình định là “cung cấp an ninh có ý nghĩa và liên tục cho người dân Việt Nam” Kế hoạch bình định mới, hay Chiến dịch Đặc biệt như người miền Nam gọi, trước tiên là mở rộng các khu vực an toàn; giai đoạn thứ hai kêu gọi chính quyền miền Nam thực hiện các biện pháp để phát triển các vùng nông thôn, duy trì luật pháp và trật tự, và xây dựng nền kinh tế địa phương. Do đó, an ninh đã trở thành trọng tâm ban đầu của nỗ lực bình định; nếu không có một môi trường an toàn, tất cả các chương trình khác đều sẽ thất bại.


Hai yếu tố quan trọng tạo tiền đề cho thành công hơn nữa của Sài Gòn trong nỗ lực bình định, đặc biệt là liên quan đến việc cải thiện tình hình an ninh nông thôn. Đầu tiên, lực lượng Cọng xả, vẫn đang chịu ảnh hưởng của các trận chiến năm 1968, không đủ sức mạnh để chống lại những nỗ lực mới của chính quyền Sài Gòn ở các vùng nông thôn, ít nhất là trong nửa cuối năm 1969. Điểm yếu tạm thời của địch đã tăng cường đáng kể cơ hội giành được lợi thế của Sài Gòn. Thứ hai, Lực lượng Nhân dân Tự về (NDTV) đã tăng cường sức mạnh và tiếng tăm. Được tổ chức trước năm 1968 để cung cấp một cấu trúc cho hoạt động tự vệ tại địa phương, lực lượng này đã suy yếu vì thiếu sự tham gia ở cấp thôn và làng. Thật trớ trêu thay, NDTV đã nhận được sự hỗ trợ đáng kể từ sau cuộc tấn công Tết Mậu Thân. Nhiều dân làng miền Nam, những người trước đây chỉ nhận thức mơ hồ về việc tham gia cuộc chiến chống lại Cọng xả của Sài Gòn, đã bị sốc trước những gì họ coi là hành động thái quá của người Cọng xả trong các cuộc tấn công năm 1968 nên giờ đây tham gia NDTV, cầm vũ khí để bảo vệ thị trấn, làng mạc và thôn xóm của mình. Đến cuối năm 1969, hơn ba triệu thành viên đã tình nguyện tham gia NDTV .Vì vậy, như cựu tướng lĩnh Nguyễn Duy Hinh khẳng định, phong trào NDTV đã thành công trong việc tập hợp quần chúng ủng hộ nỗ lực bình định của Sài Gòn và đóng góp rất lớn vào việc duy trì an ninh địa phương.


Khi an ninh được tăng cường, những dân làng trước đây đã bỏ nhà cửa để thoát khỏi vùng giao tranh bắt đầu trở về. Nhờ đó, các khu vực đông dân và an toàn do Sài Gòn kiểm soát bắt đầu mở rộng nhanh chóng. Đến năm 1971, khoảng 2 triệu người tị nạn đã trở về làng quê của mình hoặc được tái định cư ở nơi khác với sự hỗ trợ của chính phủ; con số này bao gồm 200.000 người Việt đã chạy trốn khỏi Campuchia.


Đại sứ Ellsworth Bunker đã viết thư cho Tổng thống Nixon rằng chương trình bình định đã phát triển mạnh mẽ vào năm 1969 vì Tổng thống Thiệu, lần đầu tiên, đã quan tâm đến chương trình này. Có mọi dấu hiệu cho thấy đánh giá của Bunker là đúng. Thiệu chủ trì Hội đồng Phát triển và Bình định Trung ương, cơ quan chịu trách nhiệm điều phối các hoạt động bình định, và đã trực tiếp tham gia vào việc phát triển các mục tiêu cho Chiến dịch Đặc biệt. Dưới sự chỉ đạo của ông, chương trình tập trung vào thôn làng. Trong nỗ lực trả lại quyền kiểm soát địa phương cho làng xã, chính quyền Thiệu đã cho phép dân làng tự chọn hội đồng làng của riêng mình, sau đó bầu ra trưởng làng. Vào tháng 4 năm 1969, Thiệu đã trao cho các hội đồng quyền kiểm soát lực lượng an ninh địa phương, và trong một động thái chưa từng có, các hội đồng làng đã tiếp quản quyền kiểm soát các quỹ phát triển của làng. Thiệu cũng thành lập một trung tâm đào tạo đặc biệt cho các viên chức làng xã, và cuối cùng khoảng 17.000 nhà lãnh đạo nông thôn đã tốt nghiệp.


Nhờ những bước tiến trong việc bảo vệ vùng nông thôn và động lực do Tổng thống Thiệu tạo ra, chương trình bình định đã đạt được những tiến bộ to lớn vào năm 1969. Đến cuối năm, 90 phần trăm các làng thôn ở miền Nam được đánh giá là an toàn hoặc tương đối an toàn; thêm năm triệu người về sống ở các khu vực an toàn do chính phủ kiểm soát so với năm 1967; và 92 phần trăm dân số sống ở các khu vực an toàn hoặc tương đối an toàn. Trong khi những con số này, giống như nhiều số liệu thống kê được sử dụng trong Chiến tranh Việt Nam, có thể bị nghi ngờ, các tài liệu tich thu được của Cọng xả chứng thực cho sự thành công của chương trình bình định vào năm 1969. Cuối năm đó, Văn phòng Trung ương cục Miền Nam, bộ chỉ huy cấp cao của Cọng xả nằm gần biên giới Campuchia, phía tây bắc Sài Gòn đã báo cáo, “Tóm lại, chiến dịch Mùa thu đã không đạt được kết quả như kế hoạch… Kẻ thù… đã hoàn thành được những yêu cầu cấp bách nhất của mình, đặc biệt là những yêu cầu về chương trình bình định nông thôn của mình. . . ”


Thành công trong chương trình bình định đã cải thiện đáng kể quá trình Việt Nam hóa tổng thể. Các khu vực địa phương an toàn có nghĩa là quân đội chính quy miền Nam có thể được triển khai để chiến đấu với các đơn vị chủ lực của Bắc Việt và Việt Cọng. Những tác động quan trọng khác bao gồm, cụ thể là, tinh thần của người dân được nâng cao, mạng lưới đường bộ an toàn hơn và dân số nông thôn theo về với chính quyền Thiệu ở Sài Gòn đông hơn.

NIXON, NHỮNG ĐỀ NGHỊ HÒA BÌNH CỦA HOA KỲ VÀ MẶT TRẬN NỘI ĐỊA
Trong khi Tướng Abrams dần chuyển giao chiến tranh cho Nam Việt Nam và các nỗ lực của đồng minh tăng cường trong lĩnh vực bình định, Tổng thống Nixon và Henry Kissinger đã cố gắng đưa ra một phương thức kết thúc chiến tranh thông qua đàm phán. Mặc dù cách xa các chiến trường ở Nam Việt Nam, hành động của hai người, cùng với phản ứng của Bắc Việt và các sự kiện tiếp theo diễn ra trên mặt trận trong nội địa Hoa Kỳ, đã ảnh hưởng đáng kể đến quá trình Việt Nam hóa và chính sách của Hoa Kỳ ở Đông Dương. Ngay cả trước thông báo Midway vào tháng 6, Nixon đã có những lời đề nghị với Bắc Việt. Vào ngày 14 tháng 5 năm 1969, trong một bài phát biểu trên truyền hình, tổng thống đã đưa ra một kế hoạch hòa bình gồm 8 điểm theo đó tất cả quân đội nước ngoài, cả Hoa Kỳ và Bắc Việt, sẽ rút khỏi Nam Việt Nam trong vòng một năm kể từ khi ký kết thỏa thuận; một cơ quan quốc tế sẽ theo dõi việc rút quân và giám sát các cuộc bầu cử tự do ở Nam Việt Nam. Nixon cảnh báo Bắc Việt không nên nhầm lẫn giữa thiện chí đàm phán với sự yếu đuối, nói rằng, “Các báo cáo từ Hà Nội chỉ ra rằng kẻ thù đã từ bỏ hy vọng về một chiến thắng quân sự ở Nam Việt Nam, nhưng đang trông chờ vào sự sụp đổ ý chí của Hoa Kỳ. Không thể có sai lầm phán đoán nào lớn hơn.” Hà Nội không đưa ra phản hồi nào. Theo Henry Kissinger, Bắc Việt đã từ chối thảo luận về các đề xuất của tổng thống.


Vào tháng 6, khi trở về Washington sau hội nghị Midway, Nixon đã nói trong một bữa tiệc chào đón tổ chức tại Sân cỏ phía Nam Nhà Trắng rằng kế hoạch hòa bình ngày 14 tháng 5 và thông báo rút quân Midway đã để lại cánh cửa hòa bình rộng mở, nói rằng, “Và bây giờ chúng tôi mời các nhà lãnh đạo Bắc Việt cùng chúng tôi bước qua cánh cửa đó.” Trợ lý của Kissinger là Alexander M. Haig đã ghi lại rằng Nixon hy vọng Hà Nội (và thành phần phản chiến tại Hoa Kỳ) sẽ coi hành động của ông là dấu hiệu cho thấy “sự linh hoạt” của ông.


Vào ngày 15 tháng 7 năm 1969, Nixon đã gửi cho Hồ Chí Minh một lá thư. Đã đến lúc, ông viết, “để tiến tới . . . hướng đến một giải pháp sớm cho cuộc chiến bi thảm này,” và ông hứa sẽ “thẳng thắn và cởi mở” trong các cuộc đàm phán. Mặc dù tổng thống không đưa ra bất kỳ nhượng bộ hay đề xuất cụ thể nào, ông đã ám chỉ đến lời đề nghị mà ông đã đưa ra trong bài phát biểu ngày 14 tháng 5, kết luận rằng, “Hãy để lịch sử ghi lại rằng tại thời điểm quan trọng này, cả hai bên đều hướng tới hòa bình thay vì hướng tới xung đột và chiến tranh.” Bức thư được chuyển đến doanh nhân và trung gian người Pháp Jean Sainteny. Nixon bảo ông ta phải gây ấn tượng với Hồ Chí Minh rằng tổng thống Hoa Kỳ nghiêm túc về hòa bình, nhưng ông ta cũng chỉ thị cho Sainteny cảnh báo Bắc Việt rằng nếu không có bước đột phá nào trong các cuộc đàm phán hòa bình cho đến ngày 1 tháng 11, ngày kỷ niệm ngày ngừng ném bom trước bầu cử năm 1968, tổng thống buộc lòng phải dùng đến “các biện pháp có hậu quả to lớn và mạnh mẽ”.


Trong quá trình đưa ra một lời đề nghị hòa bình, về cơ bản Nixon đã đưa ra một tối hậu thư cho Hà Nội. Trong khi Bắc Việt xem xét lá thư của Nixon, Nixon đã đi đến kết luận rằng ông phải làm điều gì đó để phá vỡ bế tắc và hỗ trợ tối hậu thư của mình. Nhà sử học George Herring cho rằng Nixon lo sợ rằng sự phản đối trong nước ngày càng tăng có thể phá hỏng những nỗ lực gây sức ép của ông để Bắc Việt chịu đàm phán. Bất chấp động cơ sâu xa nhất của mình, Nixon sau đó đã viết rằng ông đã quyết định “‘làm liều’ theo nghĩa là tôi sẽ cố gắng chấm dứt chiến tranh bằng cách này hay cách khác—hoặc thông qua thỏa thuận đàm phán hoặc bằng cách tăng cường sử dụng vũ lực.” Theo đó, Kissinger đã chỉ thị cho nhân viên của mình hoàn thành một kế hoạch chiến tranh mới “được thiết kế để tác động tối đa đến khả năng quân sự của kẻ thù.” Kết quả là một kế hoạch do Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân đưa ra, có mật danh là Duck Hook, kêu gọi một chiến dịch ném bom lớn kéo dài bốn ngày xuống Hà Nội, Hải Phòng và các khu vực trọng điểm khác ở Bắc Việt, cũng như việc thả mìn các bến cảng và sông ngòi và phá hủy hệ thống đê Sông Hồng để gây ra lũ lụt trên diện rộng. Nếu Hà Nội tiếp tục tránh né các cuộc đàm phán nghiêm túc, Duck Hook sẽ bắt đầu vào ngày 1 tháng 11 1969.


Trong khi chiến dịch ném bom đang được lên kế hoạch, Bắc Việt đã đồng ý đàm phán bí mật tại Paris giữa đại diện của họ, Xuân Thủy và Mai Văn Bộ, và Kissinger. Nixon bảo Kissinger phải kiên quyết với Bắc Việt. Ông phải nhắc nhở những người Cọng xả rằng việc rút quân của Hoa Kỳ đã bắt đầu và Hoa Kỳ đã sẵn sàng chấp nhận kết quả của các cuộc bầu cử tự do. Nếu Hà Nội không sẵn sàng đáp lại, Kissinger phải nhắc lại tối hậu thư đã gửi đi trước đó và nói với họ rằng “nếu đến ngày 1 tháng 11 không có tiến triển lớn nào hướng đến giải pháp, chúng ta sẽ buộc phải – với sự miễn cưỡng lớn – thực hiện các biện pháp có hậu quả lớn nhất”. Các cuộc đàm phán bí mật bắt đầu vào ngày 4 tháng 8 năm 1969. Kissinger không đạt được tiến triển nào với Xuân Thủy, khi ông ta khăng khăng đòi rút toàn bộ lực lượng Hoa Kỳ khỏi miền Nam, bãi nhiệm Tổng thống Thiệu và thành lập một chính phủ liên minh bao gồm Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cọng xả và những thành viên còn lại của chính quyền Sài Gòn. Như Kissinger đã viết sau này, ông và Xuân Thủy “đã đạt được rất ít thành tựu ngoại trừ việc tái khẳng định các lập trường đã được thiết lập”.


Bắc Việt đã đưa ra phản ứng gay gắt hơn đối với những lời đề nghị hòa bình của Nixon vào ngày 6 tháng 8, khi, như đã mô tả trước đó, các lực lượng Cọng xả đã tấn công hơn một trăm ngôi làng, thị trấn và thành phố ở miền Nam. Kissinger sau đó đã viết, “Diễn giải rộng lượng nhất [về các cuộc tấn công mới] không thể tránh khỏi kết luận rằng Hà Nội không tin vào cử chỉ, đàm phán, thiện chí hoặc sự có qua có lại.” Vào ngày 23 tháng 8, Nixon tuyên bố rằng ông đang trì hoãn quyết định về việc rút quân bổ sung.


Ngày 25 tháng 8, Hồ trả lời bức thư của tổng thống vào tháng 7. Theo Nixon, đó là một “lời từ chối lạnh lùng.” Hồ viết rằng “Hoa Kỳ phải chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược và rút quân khỏi Nam Việt Nam, tôn trọng quyền của người dân miền Nam và của quốc gia Việt Nam được tự quyết mà không chịu ảnh hưởng của ngoại bang.” Câu trả lời của Hà Nội là rõ ràng; như Kissinger đã viết, “Bắc Việt ít quan tâm đến việc ngăn chặn cuộc đổ máu mà chỉ quan tâm đến việc giành chiến thắng.” Có vẻ như bất kỳ nỗ lực nào để đạt được một giải pháp đàm phán đều sẽ bị bác bỏ ngay lập tức.


Tuy nhiên, tình hình trở nên bất ổn hơn vào ngày 4 tháng 9 khi Hồ Chí Minh qua đời. Điều này có ý nghĩa gì đối với cuộc chiến vẫn chưa rõ ràng. Nhiều người trong Quốc hội và phương tiện truyền thông đã thúc giục Nixon tuyên bố ngừng bắn, nhưng ông không chuẩn bị đi xa đến vậy. Thay vào đó, ông đã đình chỉ các hoạt động quân sự vào ngày diễn ra tang lễ của Hồ Chí Minh, một hành động đã thúc đẩy nhiều suy đoán hơn về một lệnh ngừng bắn.
 
Trong khi cố gắng xác định cái chết của Hồ Chí Minh có ý nghĩa gì đối với các sáng kiến hòa bình của mình, Nixon cũng phải đối phó với tình hình trong nước ngày càng bất ổn. Bọn biểu tình phản chiến đã phần nào lắng xuống sau thông báo của Midway và việc rút quân của Sư đoàn Bộ binh số 9 khỏi Đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên, Laird đã cảnh báo Nixon vào đầu tháng 9, “Tôi tin rằng đây có thể là một hiện tượng ảo tưởng. Theo tôi, ác cảm thực tế và tiềm tàng đối với cuộc chiến, theo phán đoán của tôi, là đáng kể và ngày càng gia tăng.” Laird đã được chứng minh là đúng. Cái chết của Hồ Chí Minh và khả năng đình chiến đã tiếp thêm sức mạnh cho những người muốn Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam. Tình cảm phản chiến ngày càng tăng trên báo chí, trong Quốc hội và trên đường phố Hoa Kỳ. Các dân biểu vội vã đưa ra các nghị quyết nhằm rút Hoa Kỳ khỏi Việt Nam, và Ủy ban Đối ngoại Thượng viện đã triệu tập một vòng điều trần mới về cuộc chiến. Các nhà hoạt động phản chiến đã kêu gọi một cuộc “Bãi công Chấm dứt Chiến tranh Việt Nam” để bày tỏ sự phản đối rộng rãi đối với cuộc chiến vào ngày 15 tháng 10, ngày 15 tháng 11, v.v. cho đến khi Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam.


Trong nỗ lực làm suy yếu tác động của Bãi công và gửi tín hiệu đến ban lãnh đạo mới ở Hà Nội, Nixon đã tuyên bố vào ngày 16 tháng 9 rằng mình sẽ rút thêm 60.000 quân khỏi Việt Nam vào ngày 15 tháng 12. Ông chỉ ra rằng đợt rút quân bổ sung này là một bước tiến quan trọng và rằng “thời điểm cho các cuộc đàm phán có ý nghĩa đã đến”. Ba ngày sau, ông nói rằng vì đợt rút quân này, các cuộc gọi nhập ngũ vào tháng 11 và tháng 12 sẽ bị hủy bỏ, và vào ngày 1 tháng 12, đợt xổ số nhập ngũ đầu tiên sẽ được tổ chức. Bằng những hành động này, Nixon đang cố gắng gửi một thông điệp đến cả Bắc Việt và phong trào phản chiến.


Nixon thấy mình ở trong một vị trí rất nan giải. Ông biết rằng mình không thể chỉ rút toàn bộ quân đội Hoa Kỳ mà không hủy bỏ cam kết của Hoa Kỳ đối với miền Nam và mạo hiểm để nó mất vào tay Cọng xả. Do đó, ông phải tiếp tục chiến đấu trên chiến trường, đồng thời cố gắng giành được một giải pháp có lợi tại bàn đàm phán hòa bình. Cùng lúc đó, ông phải củng cố sự ủng hộ của công chúng trong nước đối với cuộc chiến cho đến khi ông có thể đạt được một thỏa thuận đã đàm phán. Tuy nhiên, như người viết tiểu sử của Nixon, Stephen Ambrose chỉ ra, “Cuộc chiến luôn là một món hàng khó bán; một khi Nixon bắt đầu rút lui, thì đó gần như là một điều không thể.” Duy trì sự ủng hộ cho nỗ lực chiến tranh đã chứng tỏ là một thách thức khó khăn, đặc biệt là khi xét đến ác cảm của Nixon đối với những người bất đồng chính kiến. Nixon biết rằng ông phải đưa quân đội Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam, nhưng ông không chuẩn bị để thể hiện bất kỳ sự yếu đuối nào hoặc thậm chí tỏ ra đang cúi đầu trước những người biểu tình phản chiến.


Vào ngày 26 tháng 9, Nixon đã khơi lại cơn thịnh nộ của những người bất đồng chính kiến tại một cuộc họp báo. Khi được hỏi quan điểm của mình về cuộc Bãi công, ông trả lời, “Đối với hoạt động đó, chúng tôi mong đợi điều đó. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp tôi sẽ không bị ảnh hưởng vì điều độ.” Mặc dù ông phủ nhận rằng những người biểu tình có bất kỳ ảnh hưởng nào đến quá trình ra quyết định của mình, nhưng có vẻ như họ đã có tác động mà những người bất đồng chính kiến không lường trước được: các cuộc biểu tình càng ồn ào và dữ dội, thì thái độ của Nixon càng hiếu chiến.


Vào ngày 30 tháng 9, trong một cuộc họp với các nhà lãnh đạo quốc hội thuộc đảng Cọng xả, tổng thống đã ám chỉ úp mở đến Duck Hook và tối hậu thư của ông ta đối với Bắc Việt. Ông ta nói rằng 60 ngày tới sẽ rất quan trọng và tuyên bố thêm, “Tôi không thể nói cho bạn biết chuyện gì sẽ diễn ra, bởi vì nếu có bất kỳ cơ hội thành công nào, thì nó sẽ phải được thực hiện trong bí mật. Tất cả những gì tôi có thể nói với bạn là: Tôi sẽ cố gắng hết sức để chấm dứt chiến tranh… Tôi sẽ không gây khó khăn cho Bắc Việt nếu họ thực sự muốn thương thảo, nhưng tôi sẽ không phải là vị Tổng thống Hoa Kỳ đầu tiên thua trong một cuộc chiến.”


Trong một cuộc họp với chín thượng nghị sĩ Cộng hòa, ông ta đã tiết lộ bí mật Duck Hook, thừa nhận rằng một cuộc phong tỏa Hải Phòng và cuộc xâm lược Bắc Việt đang được cân nhắc. Ngày hôm sau, câu chuyện xuất hiện trên một chuyên mục của tờ báo Rowland Evans và Robert Novak; Nixon đã tự mình tiết lộ câu chuyện để thu hút sự chú ý của giới lãnh đạo Bắc Việt mới tại Hà Nội.


Bộ trưởng Quốc phòng Laird và Bộ trưởng Ngoại giao Rogers đã bị sốc trước chuyên mục này và thúc giục tổng thống không thực hiện kế hoạch. Họ chỉ ra tỷ lệ thương vong rất thấp trong vài tháng trước và lưu ý rằng hiệu suất được cải thiện của miền Nam là kết quả của chương trình Việt Nam hóa được tăng cường. Họ đã cầu xin Nixon không leo thang chiến tranh. Không nao núng, Nixon đã trả lời bằng cách gửi một bản ghi nhớ cho Kissinger, nói rằng, “Sẽ rất hữu ích nếu có thể phát động một cuộc tấn công tuyên truyền, liên tục lặp lại những gì chúng ta đã làm trong việc đề xuất hòa bình ở Việt Nam để chuẩn bị cho những gì chúng ta có thể phải làm sau này.” Nixon đang chuẩn bị tăng cường rủi ro nếu lời kêu gọi giải quyết bằng đàm phán không hiệu quả.


Hành động của Nixon đã có những tác động có thể dự đoán được đối với những người bất đồng chính kiến phản chiến cả trong và ngoài chính phủ. Thượng nghị sĩ William Fulbright đã công bố các phiên điều trần mới về cuộc chiến và cho biết Nixon đã tại vị được chín tháng, nhưng vẫn chưa đạt được bất kỳ “tiến triển nào trong việc thực hiện các lời hứa trong chiến dịch tranh cử của mình là đưa ra các kế hoạch chấm dứt chiến tranh”. Các nghị sĩ khác, chẳng hạn như Thượng nghị sĩ John Sherman Cooper, Gaylord Nelson, Mike Mansfield, Edward Kennedy và Eugene McCarthy cũng chỉ trích gay gắt Nixon và các chính sách của ông, cũng như công chúng. Các chủ tịch của 79 trường đại học đã ký một lá thư gửi Nixon thúc giục ông đẩy mạnh việc rút quân. Các cuộc biểu tình giận dữ đã được tổ chức tại Berkeley, Penn, Cornell, Duke và tại nhiều trường đại học khác trên khắp cả nước, và người biểu tình đã mang theo các biểu ngữ trước Nhà Trắng lên án Nixon và cuộc chiến.


Nixon đã đưa ra câu trả lời cho những người biểu tình trong phản hồi công khai của mình đối với một lá thư mà ông đã nhận được từ Randy Dicks, một sinh viên của Đại học Georgetown, anh ta đã đặt câu hỏi tại sao tổng thống vẫn tỏ ra không cứng rắn trước lời kêu gọi của Lệnh Bãi công và thúc giục ông “lưu ý đến nguyện vọng của người dân”. Nixon trả lời rằng không có nhiều điều để học hỏi từ các cuộc biểu tình của sinh viên và tiếp tục viết: “Bất kể vấn đề là gì, việc cho phép chính sách của chính phủ được giải quyết trên đường phố sẽ phá hủy tiến trình dân chủ. . . . [bằng cách trao] quyết định, không phải cho đa số, . . . mà cho những người to mồm nhất. Những người khác có thể nói về Việt Nam, ‘Hãy rút lui ngay bây giờ;’ khi được hỏi bằng cách nào, họ có thể đưa ra câu trả lời đơn giản, bỡn cợt: ‘Bằng đường biển.’ Họ có thể phớt lờ hậu quả. . . . [nhưng] lịch sử sẽ lên án một Tổng thống đã thực hiện một hành động như vậy.”


Vào ngày 15 tháng 10, Lệnh bãi công đã diễn ra theo đúng kế hoạch. Hàng ngàn người biểu tình đã tuần hành tại các thành phố trên khắp cả nước, bao gồm Chicago, Denver, San Francisco và Los Angeles. Hơn 100.000 người ở Boston, 200.000 người ở New York City và hơn 250.000 người ở Washington đã tham gia. Một số cố vấn của Nixon đã rất lo lắng khi Lệnh bãi công đã thu hút rất nhiều tầng lớp trung lưu và trung niên, nhưng tổng thống đã tuyên bố rằng mình vẫn dửng dưng trước các cuộc biểu tình và đã dành cả buổi chiều để xem một trận bóng đá trên truyền hình. Giữa chỗ riêng tư Nixon tuyên bố rằng các cuộc biểu tình đã “phá hủy bất kỳ khả năng nhỏ nào còn tồn tại để chấm dứt chiến tranh vào năm 1969”.


Tối hôm đó, Nixon bắt đầu chuẩn bị một bài phát biểu quan trọng sẽ được trình bày vào ngày 3 tháng 11. Nixon nhận thấy rằng ông có hai lựa chọn liên quan đến Nam Việt Nam: ông có thể chấp thuận các yêu cầu của phe biểu tình và đẩy nhanh việc rút quân của Hoa Kỳ một cách đơn phương; hoặc ông có thể leo thang chiến tranh để buộc Bắc Việt phải đàm phán hòa bình nghiêm túc. Trong khi soạn thảo bài phát biểu của mình, tổng thống đã nhận được rất nhiều lời khuyên. Vào ngày 17 tháng 10, Kissinger, vốn bị chi phối mạnh mẽ bởi sức mạnh của Vụ Bãi công để Kết thúc Chiến tranh, đã thúc giục tổng thống không nên leo thang cho đến khi Bắc Việt có cơ hội phản ứng trước thời điểm 1 tháng 11. Cùng ngày hôm đó, Nixon đã gặp chuyên gia về chiến tranh du kích người Anh, Ngài Robert Thompson. Tổng thống đã hỏi Thompson ông ta nghĩ gì về khả năng leo thang của Hoa Kỳ. Thompson “rõ ràng không ủng hộ việc leo thang” vì sự phẫn nộ mà nó sẽ gây ra trên toàn thế giới; ông tiếp tục trả lời theo ông chính sách Việt Nam hóa là hành động đúng đắn. Ông nhận ra rằng cách tiếp cận này có nghĩa là Hoa Kỳ sẽ tiếp tục can dự vào miền Nam sau thời hạn mục tiêu được Nixon tuyên bố là cuối năm 1970, nhưng tin rằng điều quan trọng là Hoa Kỳ phải “thực hiện đến cùng”.


Sau này, Nixon chỉ ra rằng khi đưa ra quyết định về leo thang và thời hạn chót vào 1 tháng 11, ông cân nhắc ba yếu tố: số thương vong của người Mỹ đang giảm nhanh chóng (và tiếng kêu gào sau đó sẽ vang lên nếu ông quyết định leo thang chiến tranh, khiến thương vong tăng lên); cái chết của Hồ Chí Minh và bất kỳ khả năng mới nào có thể phát sinh từ giới lãnh đạo mới ở Hà Nội; và lời khuyên mà ông nhận được từ Ngài Robert Thompson. Ông viết, “Theo quan điểm của ba yếu tố này và nhận ra rằng Vụ Bãi công đã làm giảm độ tin cậy của tối hậu thư, tôi bắt đầu nghĩ nhiều hơn về việc tăng cường Việt Nam hóa trong khi vẫn tiếp tục chiến đấu ở mức độ hiện tại thay vì ra sức tăng cường. Về nhiều mặt, Việt Nam hóa sẽ gây tổn thất nhiều hơn cho Cọng xả BV so với việc leo thang, như Thompson đã chỉ ra, sẽ không giải quyết được vấn đề cơ bản về việc chuẩn bị cho Nam Việt Nam, và điều đó sẽ khuấy động các vấn đề nghiêm trọng trong nước Mỹ.”
 
Nixon tiếp tục nhận được nhiều lời khuyên hơn khi bài phát biểu ngày 3 tháng 11 đến gần hơn. Bộ trưởng Ngoại giao Rogers thúc giục tổng thống tập trung vào hòa bình, nhấn mạnh các cuộc đàm phán Paris. Kissinger khuyên ông nên cứng rắn, nhấn mạnh triển vọng của Việt Nam hóa. Lãnh đạo phe đa số tại Thượng viện Mike Mansfield đã gửi cho ông một bản ghi nhớ thúc giục tổng thống xem xét tác động của chiến tranh đối với mặt trận trong nước, viết rằng, “Theo tôi, việc tiếp tục chiến tranh ở Việt Nam sẽ gây nguy hiểm cho tương lai của quốc gia này. . . . Nghiêm trọng nhất là những chia rẽ sâu sắc trong xã hội chúng ta mà cuộc xung đột có nguồn gốc và mục đích đáng ngờ này đang gây ra.”


Được trang bị tất cả những lời khuyên này, Nixon đã bay đến Trại David vào ngày 24 tháng 10 trong một kỳ nghỉ cuối tuần dài. Tại đó, ông đã làm việc từ 12 đến 14 giờ một ngày để viết và viết lại các phần của bài phát biểu. Khi trở về Washington, ông tiếp tục hoàn thiện bài phát biểu, trong quá trình đó đã trải qua 12 lần sửa đổi bản thảo. Trong khi tổng thống đang trau chuốt bài diễn văn của mình, những suy đoán về những gì ông sẽ nói đã trở nên lan rộng. Nhiều người tin rằng ông sẽ công bố lệnh rút quân mới, và một số thậm chí còn hy vọng ông sẽ công bố lệnh ngừng bắn đơn phương.


Vào đêm Thứ Hai, ngày 3 tháng 11 năm 1969, Tổng thống Richard Nixon đã xuất hiện trên truyền hình và phát thanh quốc gia để giải thích lập trường của chính quyền. Thông điệp của Nixon là Hoa Kỳ sẽ “giữ cam kết của chúng ta tại Việt Nam”. Hoa Kỳ sẽ tiếp tục chiến đấu cho đến khi Cọng xả đồng ý đàm phán một nền hòa bình công bằng và danh dự hoặc cho đến khi người miền Nam có thể tự bảo vệ mình—tùy theo điều nào xảy ra trước. Nhịp độ rút quân của Hoa Kỳ sẽ dựa trên các nguyên tắc của Học thuyết Nixon và gắn liền với tiến trình Việt Nam hóa, mức độ hoạt động của kẻ thù và những diễn biến trên mặt trận đàm phán.


Nói rằng trở ngại cho hòa bình không phải là tổng thống Hoa Kỳ hay Nam Việt Nam, ông chỉ ra rằng đã thực hiện những nỗ lực đàm phán với phía Bắc Việt. Tuy nhiên, “bên kia” đã từ chối thể hiện dù “một chút thiện chí nào để cùng chúng ta tìm kiếm một nền hòa bình công bằng”. Ông dự đoán rằng Hà Nội sẽ không hợp tác “trong khi họ tin rằng tất cả những gì họ phải làm là chờ đợi sự nhượng bộ tiếp theo của chúng ta, và sự nhượng bộ sau đó nữa, cho đến khi họ có được mọi thứ họ muốn”.


Vì vậy, không thể thấy trước bất kỳ lợi ích nào trên đấu trường đàm phán, tổng thống đã nhấn mạnh đến tiến trình đang đạt được trong việc Việt Nam hóa chiến tranh. Ông giải thích rằng mình đã thay đổi mệnh lệnh cho Tướng Abrams, cắt giảm 20 phần trăm các hoạt động ném bom và đã rút 60.000 quân, đồng thời cải thiện đáng kể trang thiết bị và huấn luyện cho QĐVNCH. Do đó, tình trạng xâm nhập của địch đã giảm, cũng như thương vong của người Mỹ. Mặc dù có các thành tựu này, ông cảnh báo rằng tốc độ rút quân trong tương lai của Hoa Kỳ sẽ phụ thuộc vào mức độ xâm nhập của kẻ thù; và nếu hoạt động của kẻ thù và thương vong của Hoa Kỳ tăng lên, “Tôi sẽ không ngần ngại thực hiện các biện pháp mạnh mẽ và hiệu quả. . . . Đây không phải là lời hăm dọa. Đây là một tuyên bố về chính sách.”


Sau khi trình bày kế hoạch của mình, tổng thống sau đó đã yêu cầu sự ủng hộ của người dân Hoa Kỳ, nói rằng:


Và vì vậy, tối nay—đối với các bạn, phần lớn những người Mỹ đồng hương thầm lặng của tôi—tôi yêu cầu sự ủng hộ của các bạn. Tôi đã cam kết trong chiến dịch tranh cử tổng thống của mình là sẽ chấm dứt cuộc chiến theo cách mà chúng ta có thể giành được hòa bình. Tôi đã khởi xướng một kế hoạch hành động cho phép tôi thực hiện lời hứa đó. Tôi càng có được nhiều sự ủng hộ từ người dân Hoa Kỳ, thì lời hứa đó càng sớm được thực hiện; vì chúng ta càng chia rẽ trong nước, thì kẻ thù càng ít có khả năng chịu đàm phán tại Paris. Chúng ta hãy đoàn kết vì hòa bình. Chúng ta cũng hãy đoàn kết chống lại thất bại. Bởi vì chúng ta hãy hiểu rõ rằng: Bắc Việt không thể đánh bại hoặc làm nhục Hoa Kỳ. Chỉ có người Mỹ mới có thể làm được điều đó.


Nixon vô cùng hài lòng với bài phát biểu và đã viết trong Hồi ký của mình rằng “rất ít bài phát biểu thực sự ảnh hưởng đến tiến trình lịch sử.” Đây là lời cường điệu tuyệt vời nhất, vì tổng thống đã không công bố bất kỳ tiết lộ gây sốc nào và chỉ nói rằng ông sẽ tiếp tục làm những gì ông đã làm trong chín tháng trước. Phản ứng của công chúng đối với bài phát biểu này rất trái chiều. Phần lớn các phương tiện truyền thông đều không tử tế với tổng thống. Đại diện cho phản ứng của phương tiện truyền thông in ấn là James Reston của tờ New York Times, ông ta đã viết, “Đó là một bài phát biểu có vẻ như được thiết kế không phải để thuyết phục phe đối lập, mà là để áp đảo họ, và có khả năng là điều này chỉ gây chia rẽ và phân cực thêm những người tranh luận tại Hoa Kỳ, mà không đưa được kẻ thù vào các cuộc đàm phán nghiêm túc.”


Phương tiện truyền thông điện tử cũng không kém phần chỉ trích. Bill Lawrence, biên tập viên chuyên mục quốc gia của Đài truyền hình ABC, nhận xét rằng bài phát biểu của tổng thống “không có gì mới” về mặt chính trị và ông cho biết, bài phát biểu này thu hút những người bị tác động bởi lời nói hơn là hành động; ông ta kết luận rằng bài phát biểu này sẽ không tạo ra nhiều khác biệt đối với cử tri trong tương lai sáu tháng tới.


Công chúng Hoa Kỳ phản ứng tích cực hơn. Nếu Nixon có ý định củng cố sự ủng hộ của dân chúng, ông đã làm được như vậy với nhận xét của “đa số im lặng”, điều này rõ ràng nói lên sự tán thành. Một cuộc thăm dò qua điện thoại của Gallup được thực hiện ngay sau bài phát biểu cho thấy 77 phần trăm chấp thuận, và hơn 50.000 bức điện tín ủng hộ áp đảo và 30.000 bức thư có nội dung tương tự đã đổ về Nhà Trắng. Làn sóng ủng hộ của công chúng đối với các chính sách của tổng thống cũng đã có tác động đến Quốc hội. Đến ngày 12 tháng 11, 300 thành viên của Hạ viện – 119 Dân chủ và 181 Cộng hòa – đã đồng bảo trợ cho một nghị quyết ủng hộ các chính sách của Nixon về Việt Nam, và 58 thượng nghị sĩ – 21 Dân chủ và 37 Cộng hòa – đã ký các lá thư bày tỏ những tình cảm tương tự. Nixon kết luận rằng ông đã có được sự ủng hộ của công chúng cần thiết để tiếp tục chính sách tiến hành chiến tranh ở Việt Nam trong khi nỗ lực đàm phán hòa bình tại Paris cho đến khi cuộc chiến có thể đi đến “một kết thúc danh dự và thành công”. Tuy nhiên, Nixon không hề ảo tưởng rằng sự ủng hộ nhất thời này sẽ có thể kéo dài và nhận ra rằng “dưới sự chỉ trích liên tục của giới truyền thông và phe chỉ trích chúng ta tại Quốc hội, mọi người sẽ sớm yêu cầu phải có những hành động mới để tạo ra tiến bộ và chấm dứt chiến tranh”.


Bài phát biểu ngày 3 tháng 11 của Nixon không hề khiến phe biểu tình nhượng bộ, và Ủy ban Vận Động Mới để Chấm dứt Chiến tranh Việt Nam đã đáp lại bằng lời kêu gọi biểu tình trong hai ngày. Những cuộc biểu tình này thậm chí còn vượt xa kỳ vọng của những người đã lên kế hoạch cho chúng. Các sự kiện bắt đầu vào ngày 13 tháng 11 với một “Cuộc Diễu hành Chống lại Cái chết” đầy kịch tính, trong đó một hàng người duy nhất gồm 40.000 người đi bộ trong im lặng từ Nghĩa trang Quốc gia Arlington đến Nhà Trắng và Tòa nhà Quốc hội. Cuộc biểu tình lên đến đỉnh điểm vào ngày 15 tháng 3 khi có từ 250.000 đến 300.000 người tham gia diễu hành từ Tòa nhà Quốc hội xuống Đại lộ Pennsylvania đến Đài tưởng niệm Washington; nhiều người biểu tình mang theo biểu ngữ có dòng chữ “Đa số Im lặng vì Hòa bình”. Các cuộc biểu tình của cuộc Bãi công tháng 11 có bản chất cực kỳ ôn hòa và, cùng với Bãi công tháng 10, đã chứng minh sức mạnh ngày càng tăng của phong trào phản chiến và sự tham gia ngày càng tăng của tầng lớp Mỹ chính thống.


Chính quyền Nixon kết thúc năm 1969 trong thế bế tắc trên hầu như mọi mặt trận liên quan đến cuộc chiến tranh ở Việt Nam—trên chiến trường, tại bàn đàm phán và tại mặt trận trong nước. Nếu không có một cuộc rút quân đơn phương hoàn toàn, cách duy nhất để phá vỡ những bế tắc này là thực hiện chiến lược Việt Nam hóa. Chiến lược Việt Nam hóa và chương trình đồng hành của nó, bình định, đã bắt đầu cho thấy những tia sáng thành công; tuy nhiên, tốc độ thay đổi cực kỳ chậm. Nixon đã điều hành cuộc chiến trong một năm và hơn 475.000 binh sĩ Hoa Kỳ vẫn ở lại Đông Nam Á và 9.145 người khác đã thiệt mạng. Mặc dù vậy, một cuộc thăm dò của Gallup cho biết đến tháng 11, chỉ có một trong năm người Mỹ ủng hộ việc rút quân ngay lập tức khỏi Nam Việt Nam. Câu hỏi then chốt là tỷ lệ phần trăm đó sẽ thay đổi nhanh như thế nào—liệu người dân Mỹ có dành cho Nixon và chính quyền của ông thời gian cần thiết để hoàn tất quá trình Việt Nam hóa hay không? Một câu hỏi quan trọng khác là liệu chính sách này có phải là một giải pháp thực tế hay không, xét đến giới lãnh đạo chính trị của miền Nam và nhiều vấn đề đang đeo bám cả quân đội và xã hội Nam Việt Nam nói chung.
 

Có thể bạn quan tâm

Top