Đạo lý [Andrew Huberman #1] Hệ thần kinh làm việc và thay đổi như thế nào?


Podcast của Andrew Huberman là nơi bàn về khoa học và các công cụ khoa học cho cuộc sống hàng ngày.
Kiến thức giờ quá nhiều, t phải có cách ghi chú lại. Nhưng mà viết ra giấy thì t chẳng bao giờ chịu đọc nên t viết lên xam, nơi t khá bị nghiện gần đây. Tml giỏi ghi chép thì bày giúp t nhé, cảm ơn nhiều lăm. Hiện tại, t sẽ dịch lại hoàn toàn nội dung cũ, dù hơi nhiều chữ, nhưng là sự tôn trọng nội dung nguyên gốc của tác giả. Hơn nữa, chắt lọc kiến thức là một công việc tự thân.
Andrew Huberman là một giáo sư về neurobiology (sinh học thần kinh) và ophthalmology (mắt) tại Stanford School of Medicine (Trường Dược Stanford). Podcast #1 bàn về danh sách các thành phần của hệ thần kinh.
Giới thiệu:
Hệ thần kinh là những thứ tạo nên mọi thứ trong trải nghiệm sống của bạn, từ cái bạn nghĩ, cái bạn cảm nhận, cái bạn tưởng tượng, cái bạn đạt được, từ khi bạn được sinh ra đến khi bạn chết đi. Kiến thức về hệ thần kinh rất kỳ diệu, nó có một lịch sử, nhờ nó ta có nhiều khám phá về kỹ thuật, quân sự, tôn giáo và triết học. Hệ thần kinh sẽ được giới thiệu qua lăng kính của đời sống và của lịch sử khám phá ra hệ thần kinh. Kết thúc podcast, bạn sẽ hiểu hơn về cách bạn vận hành và làm sao để ứng dụng những kiến thức đó. Sẽ có một vài chuyện để nói, về những người đã khám phá ra tri thức đó. Sẽ có một chút ngôn ngữ kỹ thuật, chẳng tránh được. Nhưng sau cùng, bạn sẽ có trong tay lượng kiến thức tương đương với một kỳ học về hệ thần kinh và cách con người hoạt động.
Một số điểm cần làm rõ trước khi bắt đầu: Thứ nhất, tôi không phải một bác sỹ, tôi không kê đơn. Tôi là một giáo sư, nên đôi khi tôi giảng, thực ra tôi giảng khá là nhiều thứ. Ta sẽ nói về một số chức năng cơ bản của hệ thần kinh, các thành phần, v.v. nhưng ta cũng sẽ nói về cách để ứng dụng những kiến thức đó. Tức là, sức khoẻ của bạn, là trách nhiệm của bạn. Nên bất cứ khi nào ta nói về những công cụ, xin hãy sàng lọc nó qua bộ lọc trách nhiệm. Nói chuyện với một chuyên gia chăm sóc sức khoẻ, nếu bạn định thử các công cụ hoặc bài tập mới, và xin hãy khôn ngoan khi theo đuổi các công cụ mới này. Và tôi cũng muốn nhấn mạnh rằng, podcast này và những thứ khác tôi làm trên truyền thông xã hội là mục tiêu cá nhân muốn mang thông tin người dùng miễn phí
đến công chúng. Nó tách biệt với vai trò của tôi ở Stanford University (Đại học Stanford). Trên tinh thần đó, tôi [quảng cáo]

Hệ thần kinh là gì?
Hãy nói về hệ thần kinh. Lý do tôi nói hệ thần kinh thay vì não là vì não bộ thật ra chỉ là một phần của một thứ lớn hơn, thành thật mà nói, quan trọng hơn, thứ mà ta gọi là hệ thần kinh. Hệ thần kinh bao gồm não, tuỷ sống (spinal cord) và tất cả những kết nối giữa não và tuỷ sống và các cơ quan trong cơ thể. Nó cũng bao gồm, rất quan trọng này, mọi kết nối từ các cơ quan, trở lại tuỷ sống và não. Nên cách để liên tưởng về cách thức mà bạn hoạt động ở mọi mức độ; từ khoảnh khắc bạn được sinh ra đến ngày bạn chết, mọi thứ bạn nghĩ, nhớ, cảm nhận và tưởng tượng; là: hệ thần kinh là một vòng lặp liên tục của những liên lạc giữa não, tuỷ sống và cơ thể, và cơ thế, tuỷ sống và não. Thật ra, ta thậm chí không thể phân tách chúng, nó là một vòng lặp liên tục. Có thể bạn từng nghe về dải Mobius, dải Mobius kiểu như một hình dạng bất khả mà ở đó, dù có nhìn nó từ góc độ nào thì cùng không thể chỉ ra nó bắt đầu và kết thúc ở đâu.
Đó chính xác là cách mà hệ thần kinh được xây dựng. Đó là cấu trúc cho phép bạn, ví dụ, tạo ra tế bào miễn dịch để diệt sự nhiễm trùng. Hầu hết mọi người chỉ nghĩ về nó như một chức năng của hệ miễn dịch, nhưng thực ra là hệ thần kinh ra lệnh cho những cơ quan như lá lách (spleen) tạo ra tế bào bạch huyết (killer cell), thứ sẽ săn lùng vi khuẩn và virus ngoại lai và nuốt lấy chúng. Giả dụ khi bạn bị đau bụng, dĩ nhiên bạn thấy đau ở bụng nhưng thực ra là hệ thần kinh gây ra cơn đau bụng. Khía cạnh đau là một đặc trưng của hệ thần kinh. Nên khi ta nói về trải nghiệm hay nói về thay đổi bản thân theo bất cứ cách nào, thực sự ta cần nghĩ về hệ thần kinh trước. Là công bằng khi nói rằng, hệ thần kinh chi phối mọi hệ sinh học (biological system) khác trong cơ thể, và nó cũng bị ảnh hưởng bởi những hệ sinh học khác.
Vậy nên, nếu ta nói về hệ thần kinh, ta cần nói chi tiết hơn. Nó không chỉ là một vòng lặp khổng lồ của những dây dẫn. Thật ra, có một câu chuyện thú vị về điều này. Vào thời chuyển giao giữa những năm 1800 và những năm 1900, người ta từng tin rằng hệ thần kinh chỉ là một tế bào khổng lồ. Nhưng có hai người, tên thì không quá quan trọng, nhưng để công bằng với khám phá quan trọng của họ, là Ramon y Cajal, một người Tây Ban Nha, và Camillo Golgi, một người Ý, đã khám phá ra cách để gán nhãn, hay, nhuộm màu hệ thần kinh, bằng cách này khám phá ra rằng, thật ra con người được tạo ra bởi hàng nghìn tỷ tế bào nhỏ - tế bào thần kinh, gọi là neuron. Đó là bản chất của neuron, nó chỉ là một tế bào thần kinh. Họ cũng thấy rằng những tế bào thần kinh đó không chạm vào nhau, thực ra chúng bị phân chia bởi những khoảng nhỏ. Và những khoảng nhỏ đó, có thể bạn đã nghe rồi, được gọi là synapses. Các synapse là nơi những hoá chất từ một neuron, kiểu như được khạc ra hoặc bị nôn vào. Sau đó, tế bào thần kinh tiếp theo phát hiện các hoá chất đó, và sau đó truyền điện dọc theo chiều dài của nó tới tế bào thần kinh tiếp theo, và cứ thế.
Nên thực ra, cách để liên tưởng đến cơ thể của bạn, suy nghĩ của bạn, và tâm trí của bạn là: bạn là một dòng chảy điện. Không có gì bí ẩn ở đây cả. Bạn là một dòng chảy điện giữa những tế bào thần kinh khác nhau. Và phụ thuộc vào việc tế bào thần kinh nào hoạt động, bạn có thể nâng tay lên hoặc hạ tay xuống. Bạn có thể nhìn một thứ gì đó và thấy nó màu đỏ, hoặc nhìn một thứ gì đó và thấy nó màu lục. Tất cả phụ thuộc vào việc tế bào thần kinh nào được kích hoạt về điện tại một thời điểm cụ thể. Ví dụ về việc cảm nhận đỏ hoặc lục là một ví dụ đặc biệt hay. Vì rất thường xuyên, trải nghiệm của ta về thế giới, tưởng như những thứ đó xảy ra bên ngoài ta, thật ra lại xảy ra bên trong ta. Nhưng ngôn ngữ của hệ thần kinh chỉ là điện. Nó chỉ như là một kiểu mã Morse, hay là âm tiết, từ ngữ, phụ âm, nguyên âm của một ngôn ngữ. Nó chỉ phụ thuộc vào cách mà chúng được ghép lại, theo thứ tự nào.

Deja Vu
Điều đó đưa ta tới vấn đề về cách thức mà hệ thần kinh hoạt động. Cách để liên tưởng đến cách thức mà hệ thần kinh hoạt động là: trải nghiệm của ta, ký ức của ta, mọi thứ, giống như là những phím đàn trên một chiếc piano, được chơi theo một thứ tự cụ thể. Nếu tôi chơi các phím đàn trên piano theo một thứ tự nhất định, với một độ mạnh nhất định, đó là một bài nhạc. Ta có thể có liên tưởng tương tự với trải nghiệm. Không phải phím đàn, A trưởng hay E thứ, là bài nhạc. Đó chỉ là một thành phần của bài nhạc. Nên khi bạn nghe là, ví dụ, có một vùng não gọi là hồi hải mã (hippocampus) liên quan tới trí nhớ. Nó có liên quan tới trí nhớ, nhưng không phải là ký ức được lưu trữ ở đó, như kiểu thành các câu. Chúng được lưu trữ ở đó như những mẫu hình điện trong các neuron, khi mẫu hình đó được lặp lại, bạn có cảm giác như thể mình cảm nhận ký ức một lần nữa. Thực tế, deja vu, cảm giác rằng cái mà bạn đang trải nghiệm thật thân thuộc và giống như một thứ bạn đã trải nghiệm trước đây, thuần tuý là những neuron được kích hoạt trong một tình huống, nay lại được kích hoạt trong cùng tình huống đó. Nên nó thật ra chỉ như là nghe lại một bài nhạc, có thể không phải được chơi trên piano, mà lần tới là ở trên guitar cổ điển. Có thứ gì đó giông giống ở bài nhạc đó, dù nó được chơi ở hai nhạc cụ khác nhau. Nên tôi nghĩ là việc mọi người hiểu về những thành phần của hệ thần kinh và rằng nó bao gồm nhiều thứ hơn là chỉ bộ não, và rằng có những thứ - neuron và synapse, là rất quan trọng. Nhưng thực sự, hoạt động điện của những neuron đó chính là thứ chi phối trải nghiệm của chúng ta.

Cách mà chiến tranh, súng và xà phòng dạy ta hiểu biết về bộ não
Nếu những năm đầu 1900 là khi neuron được khám phá, hẳn nhiên là nhiều điều đã xảy ra kể từ khi đó. Và giữa những năm đầu 1900 và hiện tại, có một số sự kiện quan trọng đã xảy ra, chúng đã mang đến sự hiểu biết sâu sắc về cách thức hệ thần kinh hoạt động. Một trong những ví dụ gây ngạc nhiên là chiến tranh. Như mọi người đã biết, trong chiến tranh, mọi người bị bắn và thường sẽ chết, nhưng nhiều người bị bắn mà không chết. Trong thế chiến I, có một số thay đổi trong pháo binh, trong đạn dược. Thay đổi được tạo ra vì một tình huống, trong đó viên đạn đi vào cơ thể và não ở những vị trí rất rời rạc, và đi ra bên kia cơ thể hoặc não, và cũng tạo ra một lỗ rất nhỏ tại nơi nó đi ra. Và vì thế, làm cho rất nhiều thương tổn (lesion) tự nhiên xuất hiện trong hệ thần kinh. Không như những năm trước, khi mà pháo tạo ra lỗ hổng to khi đạn nổ qua não hoặc cơ thể, nếu những cái lỗ rất rời rạc, chúng đi vào từ một điểm và đi ra ở một điểm khác, chúng sẽ lấy đi, hay phá huỷ những phần rất rời rạc của mô thần kinh, của hệ thần kinh. Nên là người ta quay về từ chiến tranh, với lỗ trong não, và ở phần khác của hệ thần kinh, ở những nơi nằm giới hạn trong những vị trí rất cụ thể. Cùng với đó, đã có một số tiến bộ trong việc làm sạch vết thương, nên nhiều người sống sót hơn. Ý nghĩa của điều này là: những nhà thần kinh học giờ có một bộ những bệnh nhân, trở về và có lỗ ở những vị trí rất cụ thể trong não. Và học sẽ nói những thứ như, "Ờ, tôi có thể nhận ra mặt nhưng không thể nhận ra đó là mặt của ai. Tôi biết đó là một khuôn mặt nhưng không biết đó là mặt của ai". Sau khi người đó chết, nhà thần kinh học sẽ khám phá ra rằng "Ah, tôi có 10 bệnh nhân đều nói rằng họ không thể nhận ra khuôn mặt, và họ đều có lỗ đạn xuyên qua một vùng cụ thể trong não. Và đó là cách mà ta biết về cách mà những vùng cụ thể trong não, như hồi hải mã, hoạt động. Thật ta, có một số ví dụ tuyệt vời hơn, là khi người ta trở về và họ, ví dụ, nói năng lắp bắp, trong khi đó trước đó họ có thể nói bình thường. Và dù họ nói lắp bắp, họ có thể hiểu ngôn ngữ một cách hoàn hảo. Đó là cách mà ta biết rằng khả năng nói và ngôn ngữ thật ra được điều khiển bởi những phần khác nhau của hệ thần kinh. Và có rất nhiều ví dụ như vậy.
 
Sửa lần cuối:
Neuron Jennifer Aniston
Có những người không thể nhận ra khuôn mặt của người nổi tiếng. Điều này dẫn ta tới một ví dụ thú vị trong thời hiện đại. Rất nhiều năm sau này, trong những năm đầu 2000, có một paper được xuất bản trong tạp chí Nature, một tạp chí xuất sắc, chỉ ra rằng trong cơ thể người, một người hoàn toàn khoẻ mạnh, có một neuron sẽ được kích hoạt về điện chỉ khi người đó nhìn thấy hình diễn viên Jennifer Aniston. Nên là theo nghĩa đen, có một neuron biểu diễn cho Jennifer Aniston, được gọi là tế bào Jennifer Aniston, những nhà thần kinh học biết về sự tồn tại của tế bào Jennifer Aniston. Nếu bạn có thể nhận ra mặt của Jennifer Aniston, bạn có những neuron Jennfier Aniston, và có thể bạn cũng có những neuron có thể nhận ra khuôn mặt của những người nổi tiếng và không nổi tiếng khác. Nên nó chỉ ra rằng, bộ não thực ra là một bản đồ của những trải nghiệm của ta. Ta đến với thế giới và não ta có thiên kiến hướng về việc học những thứ cụ thể. Nó sẵn sàng nhận lấy thông tin, học thông tin đó, nhưng não bộ thật ra là một bản đồ của những trải nghiệm.

Cảm giác
Hãy nói về trải nghiệm, trải nghiệm thực sự là gì? Não bạn hoạt động thì có nghĩa là gì? Tôi nghĩ là sẽ công bằng khi nói rằng, hệ thần kinh thực sự làm 5 việc, có thể là 6. Thứ nhất là cảm giác. Việc hiểu điều này rất quan trọng, với bất kỳ ai trong số các bạn muốn thay đổi hệ thần kinh của mình, hay muốn áp dụng những công cụ để làm cho hệ thần kinh làm việc tốt hơn. Cảm giác là một yếu tố không thể thay đổi của hệ thần kinh. Bạn có neuron trong mắt để cảm nhận những màu nhất định của ánh sáng và những hướng nhất định của chuyển động. Bạn có neuron trong da để cảm nhận những kiểu chạm cụ thể, như là chạm nhẹ hay chạm mạnh, hay chạm đau. Bạn có neuron trong tai để cảm nhận những âm thanh nhất định. Toàn bộ trải nghiệm của bạn trong đời được lọc bởi những thứ mà ta gọi là thụ quan này (sensory receptor).
Điều này luôn làm dấy lên một câu hỏi thú vị, người ta hỏi là, "Ủa, vậy là ngoài kia có nhiều hơn? Có nhiều thứ hơn xảy ra trên thế giới mà tôi không được trải nghiệm hoặc loài người không được trải nghiệm". Câu trả lời dĩ nhiên là "Phải". Có rất nhiều giống loài trên hành tinh này có thể cảm nhận những thứ ta sẽ không bao giờ có thể, trừ khi ta áp dụng công nghệ. Ví dụ tốt nhất mà tôi có thể nghĩ ra bây giờ là thị giác hồng ngoại. Có những loài rắn, pit vipers, v.v. có thể cảm nhận bức xạ nhiệt từ động vật khác. Chúng không thực sự nhìn thấy các hình dạng, chúng cảm nhận hình dạng nhiệt và bức xạ nhiệt. Con người không thể làm vậy, dĩ nhiên trừ khi đeo kính hồng ngoại hoặc thứ gì đó có thể giúp phát hiện bức xạ nhiệt.

Cảm nhận từ trường và giao phối
Có những loài rùa và những loài chim nhất định di cư những khoảng cách xa, chúng có thể phát hiện từ trường, vì chúng có những neuron. Một lần nữa, là hệ thần kinh cho phép chúng làm vậy. Chúng có neuron trong mũi và trong đầu để cho phép chúng di cư dọc theo từ trường, để có thể đi từ một vị trí cụ thể trên đại dương, cách xa hàng ngàn dặm, rồi tất cả cùng tới một bãi biển cụ thể, ở một thời điểm nhất định trong năm. Để rồi chúng có thể kết đôi, đẻ trứng, và rồi trở về với biển để chết. Và con chúng sẽ nở, những chú rùa nhỏ sẽ bò ra biển, bơi đi và làm lại y hệt. Chúng không di cư khoảng cách xa như thế bằng thị giác hay thính giác, chúng làm thế bằng cách cảm nhận từ trường. Và nhiều loài khác làm được những điều kỳ diệu, ta thì không, ta không phải sinh vật cảm nhật từ trường, ta không làm được vì ta không có thụ quan để cảm nhận từ trường. Có một số dữ liệu chỉ ra rằng có thể có một số người có thể cảm nhận từ trường, nhưng bạn nên hoài nghi nếu có ai định thuyết phục bạn rằng họ có thể làm thế với một mức độ mạnh hoặc chính xác tuỳ ý. Vì kể cả người ta có thể làm được, họ không nhất thiết biết được họ có thể. Chắc sẽ là một chủ đề cho podcast trong tương lai.

Nhận thức và đèn pha tập trung
Ta có cảm giác, rồi ta có nhận thức. Nhận thức là khả năng lấy những gì ta cảm nhận và tập trung vào nó và làm cho nó có lý, khám phá nó, ghi nhớ nó. Nên thật ra, nhận thức chỉ là bất kỳ cảm giác nào mà ta tập trung vào tại một thời điểm nào đó. Và bạn có làm thế ngay bây giờ. Bạn có thể trải nghiệm nhận thức và sự khác nhau giữa nhận thức và cảm nhận, rất dễ. Nếu, ví dụ, tôi bảo bạn tập trung vào cảm giác ở đáy bàn chân, vào bề mặt mà nó chạm vào, có thể là đế giày, có thể là sàn nhà, nếu bạn đang để chân lên thì có thể là không khí. Khoảnh khắc bạn đặt, thứ mà chúng tôi gọi là đèn pha tập trung (splotlight of attention), đèn pha nhận thức lên bàn chân mình, bạn đang nhận thức thứ đang xảy ra ở đó. Thứ đang được cảm nhận ở đó. Tuy nhiên, cảm nhận vẫn xảy ra xuyên suốt. Nên dù cảm nhận là không thể thay đổi, bạn không thể thay đổi thụ cảm trừ khi bạn dùng công nghệ mới nào đó, nhận thức lại nằm dưới sự kiểm soát của sự tập trung của bạn.
 
Sửa lần cuối:
Cần thêm những bài chia sẻ kiến thức như này
 
Đa nhiệm là có thật
Cách để liên tưởng đến tập trung là: nó giống như một đèn pha, ngoại trừ việc nó không chỉ gồm một cái đèn pha. Thật ra bạn có hai đèn pha tập trung. Bất kỳ ai nói rằng bạn không thể làm nhiều việc một lúc, nói với họ là họ đã sai. Và nếu họ không đồng ý, bảo họ liên lạc với tôi. Vì trong thế giới cũ của loài linh trưởng, con người cũng là linh trưởng, ta có thể làm một việc gọi là che đậy tập trung (covert attention). Ta có thể đặt đèn pha tập trung vào một thứ, ví dụ, một thứ ta đọc, nhìn hoặc nghe và ta có thể đặt một đèn pha tập trung thứ hai lên một thứ ta ăn và vị của nó, hay con cái của chúng ta chạy quanh phòng hay chó cưng. Bạn có thể chia sự tập trung cho hai nơi, nhưng dĩ nhiên bạn có thể đưa sự tập trung, tức là nhận thức của bạn, đến một nơi duy nhất. Bạn có thể mở rộng (dilate) sự tập trung, kiểu như làm cho đèn pha khuếch tán (diffuse) hơn, hay bạn có thể làm nó hội tụ hơn. Việc hiểu điều này là rất quan trọng, nếu bạn định dùng những công cụ để cải thiện hệ thần kinh, dù công cụ đó ở dạng hoá chất, một supplement, để tăng cường hoá chất nào đó trong não, hay ở dạng một thiết bị máy não hay bạn định thử học một thứ gì đó tốt hơn bằng cách thực hiện tập trung hay một sự theo đuổi được thúc đẩy, trong một chu kỳ nào đó mỗi ngày; sự tập trung là một thứ tuyệt đối nằm dưới sự kiểm soát của bạn. Cụ thể, khi bạn được nghỉ ngơi. Ta sẽ lại nói về nó, tuy nhiên, khi bạn được nghỉ ngơi, và ta sẽ định nghĩa nghỉ ngơi rất rõ ràng, bạn có thể chỉ đạo sự tập trung theo những cách rất có chủ ý. Và đó là vì ta có một thứ trong hệ thần kinh, nó giống như kiểu một con phố hai làn, và con phố hai làn đó là một sự liên lạc giữa những khía cạnh phản xạ (reflexive) của hệ thần kinh và những khía cạnh có chủ đích (deliberate) của hệ thần kinh.

Kiểm soát hành vi từ dưới lên vs. từ trên xuống
Ta đều biết phản xạ là gì. Trong đời, bạn sẽ đi bộ. Nếu bạn đã biết đi bộ, bạn không nghĩ về việc đi bộ, bạn chỉ đi thôi. Và đó là vì hệ thần kinh muốn chuyển giao nhiều nhất có thể cho những hành động phản xạ. Đó được gọi là xử lý từ dưới lên. Nó đơn giản là thông tin chảy qua giác quan, bất kể bạn đang nhận thức cái gì, thông tin đó chảy lên và nó chỉ đạo hoạt động của bạn. Nhưng vào bất kỳ lúc nào, ví dụ, một cái oto phanh kíttttt trước mặt bạn ở ngã rẽ và bạn lập tức ngưng lại. Bây giờ bạn chuyển sang hành động có chủ đích. Bạn sẽ nhìn quanh theo một cách rất có chủ đích. Hệ thần kinh có thể là phản xạ trong hành động, hoặc nó có thể là có chủ đích. Nếu hành động phản xạ thường được gọi là từ dưới lên, hành động có chủ đích, nhận thức có chủ đích và suy nghĩ có chủ đích là từ trên xuống. Chúng yêu cầu một lượng nỗ lực và một lượng tập trung. Nhưng đó chính là điểm cốt yếu.
 
Sửa lần cuối:
Tập trung tâm trí (Focusing the mind)
Bạn có thể quyết định nên tập trung và sử dụng năng lượng lên bất cứ thứ gì bạn muốn. Bạn có thể quyết định tập trung hành vi theo bất cứ cách nào bạn muốn. Nhưng bạn sẽ luôn cảm thấy như điều đó cần một lượng nỗ lực và một lượng căng thẳng. Trong khi khi bạn ở chế độ phản xạ, cứ đi bộ, nói chuyện, ăn, làm việc vặt, sẽ cảm thấy rất dễ dàng. Đó là vì hệ thần kinh về cơ bản đã nối dây dẫn để có thể làm hầu hết mọi việc dễ dàng mà không cần nhiều sự trao đổi chất (metabolic), không tiêu thụ quá nhiều năng lượng. Nhưng khoảnh khắc bạn cố gắng và làm một thứ rất cụ thể, bạn sẽ cảm thấy một thứ như ma sát thần kinh, sẽ thách thức đấy.

Cảm xúc + Hoá chất của cảm xúc
Ta đã có cảm nhận, nhận thức, giờ ta có thứ gọi là cảm giác (feeling)/ cảm xúc. Cái này hơi phức tạp, vì hầu hết tất cả chúng ta, tôi hy vọng là tất cả chúng ta, đã quen thuộc với những thứ như hạnh phúc hay buồn bã, hay chán trường hay thất vọng. Những nhà khoa học tranh cãi như điên, nhà thần kinh học và nhà tâm lý học và nhà triết học. Họ tranh luận như điên về bản chất của chúng và cách chúng hoạt động. Chắc chắn là cảm xúc và cảm giác là sản phẩm của hệ thần kinh. Chúng liên quan đến hoạt động của neuron. Nhưng như tôi đã nói từ trước, neuron được kích hoạt điện, nhưng chúng cũng tiết ra hoá chất. Và có một danh sách những hoá chất có ảnh hưởng sâu sắc đến trạng thái cảm xúc của ta, chúng được gọi là các neuromodulator (neuro: thần kinh, modulate: điều chỉnh). Và những neuromodulator đó có những cái tên có thể bạn đã nghe. Như là dopamine, serotonin, acetylcholine, epinephrine.
Những neuromodulator rất là thú vị, vì chúng thiên vị neuron nào có nhiều khả năng được kích hoạt hơn, và neuron nào có ít khả năng được kích hoạt hơn. Một cách đơn giản để liên tưởng đến các neuromodulator là chúng giống như những playlist mà bạn có ở bất kỳ thiết bị nào, mà ở đó, bạn sẽ chơi một thể loại nhạc cụ thể. Ví dụ, dopamine, thứ thường được bàn luận như là phân tử của phần thưởng hay niềm vui, nó liên quan đến phần thưởng. Và nó đúng là có xu hướng tạo ra một tâm trạng hưng phấn khi được tiết ra với một lượng phù hợp trong não. Nhưng lý do nó làm được vậy là vì những neuron nhất định mà ta gọi là những mạch neuron (neural circuit) hoạt động nhiều hơn và những mạch khác thì ít hơn. Nên là, ví dụ, serotonin là một phân tử, khi nó được tiết ra, nó có xu hướng làm ta cảm thấy tốt với những gì ta có, kiểu như phong cảnh trong người ta (our sort of internal landscape?) và những tài nguyên mà ta có, trong khi dopamine không chỉ là một phân tử của phần thưởng, nó đúng hơn là một phân tử của động lực, hướng tới những thứ bên ngoài bản thân ta và thứ mà ta muốn theo đuổi. Và ta có thể coi tình trạng khoẻ mạnh như là đang ở trong một sự theo đuổi mục tiêu, mà ở đó mỗi khi ta đạt được một thứ gì đó trên đường đến mục tiêu, một ít dopamine được tiết ra, và ta cảm thấy có động lực hơn. Ta cũng có thể xem xét những ví dụ cực đoan, như là nghiện ngập, ở đó một người theo đuổi không ngừng nghỉ những thứ bên ngoài như tiền hay những mối quan hệ. Họ giống như ở trong một trạng thái suy nghĩ ảo tưởng rằng họ có những tài nguyên mà họ cần để có thể theo đuổi những thứ đó trong khi thực ra họ không. Nên là những neuromodulator có thể tồn tại ở mức bình thường, mức thấp, mức cao.

Thuốc chống suy nhược
Và điều đó cho ta một cái nhìn tới một khía cạnh rất quan trọng trong lịch sử khoa học thần kinh, thứ mà đến ngày nay tất cả chúng ta vẫn bị ảnh hưởng bởi nó, đó là sự khám phá ra thuốc chống suy nhược và thứ gọi là anti-psychotics (chống rối loạn tâm thần). Vào những năm 1950, 60 và 70, người ta khám phá ra rằng có những hợp chất hoá học có thể tăng hoặc giảm serotonin, có thể tăng hoặc giảm dopamine. Và điều đó dẫn đến sự phát triển của hầu hết những thứ ta gọi là thuốc chống suy nhược (antidepressant). Vấn đề ở đây là hầu hết những loại thuốc đó, đặc biệt là vào những năm 1950 và 60, là chúng sẽ làm giảm serotonin nhưng chúng cũng làm giảm dopamine, hoặc chúng sẽ tăng serotonin những cũng làm tăng một vài hoá chất neuromodulator khác. Và đó là vì tất cả những hệ hoá học này trong cơ thể, nhưng cụ thể là những neuromodulator, có rất nhiều thụ thể. Thụ thể này khác thụ thể mà ta nói ở phần trước. Thụ thể này kiểu giống như những chỗ đỗ xe nơi mà dopamine được giải phóng, và nếu nó gắn vào một thụ thể, giả sử trên tim, nó có thể làm tim đập nhanh hơn, vì có một loại thụ thể nhất định trên trái tim, trong khi đó nếu dopamine được giải phóng và gắn vào cơ, nó có thể có một hiệu ứng khác hoàn toàn lên cơ. Thực tế đúng là như vậy. Nên là những thụ thể khác nhau trên những cơ quan khác nhau của cơ thể là những cách mà những neuromodulator này có thể có những hiệu ứng khác nhau trên những khía cạnh khác nhau của sinh học cơ thể. Đây là ví dụ nổi bật nhất, về một số loại thuốc chống suy nhược có hiệu ứng phụ liên quan đến tình dục, hoặc làm mất cơn thèm ăn, hoặc làm mất động lực. Rất nhiều trong số chúng làm tăng serotonin, có thể có ích với con người, nó thể cải thiện tâm trạng, làm họ thấy tốt hơn; nhưng nếu quá liều hay thuốc cụ thể đó không phù hợp với ai đó, người đó gặp khó khăn trong động lực, hoặc ăn uống, hoặc tình dục bởi vì serotonin đang bám vào những thụ quan trong những khu vực của bộ não, những nơi cũng điều khiển cả những điều trên.
Ta đã nói về cảm nhận, về nhận thức, khi nói về cảm giác, ta phải cân nhắc đến các neuromodulator. Và ta cũng phải cân nhắc rằng cảm giác và cảm xúc mang tính ngữ cảnh. Trong một vài nền văn hoá, thể hiện ra nhiều niềm vui hay nỗi buồn là hoàn toàn chấp nhận được, trong những nền văn hoá khác, người ta lại coi đó là không lịch sự. Nên tôi không nghĩ sẽ là công bằng khi nói rằng có một mạch buồn hay một khu vực buồn trong não hay một mạch vui hay một khu vực vui trong não. Tuy nhiên, sẽ công bằng khi nói rằng, những hoá chất nhất định và những mạch nhất định trong não có xu hướng hoạt động khi ta ở trong trạng thái có động lực, hay có xu hướng hoạt động khi ta ở trạng thái lười nhác không động lực, hay có xu hướng hoạt động khi ta tập trung, hay có xu hướng hoạt động khi ta không tập trung. Tôi cũng muốn nhấn mạnh rằng, cảm xúc là thứ gì đó mà ta nói chung là có cảm giác nó không nằm dưới sự kiểm soát của mình. Ta cảm thấy chúng như mạch nước ngầm phun trảo ra từ bên trong, và kiểu như nó cứ thế xảy ra. Và đó là vì chúng phần nào đó là phản xạ. Ta không thực sự chuẩn bị trước với một suy nghĩ có chủ đích là sẽ hạnh phúc hay có chủ đích là sẽ buồn. Ta có xu hướng trải nghiệm chúng, theo một cách thụ động và phản xạ.
 
Sửa lần cuối:
Suy nghĩ và kiểm soát suy nghĩ
Và điều đó dẫn ta tới chủ đề tiếp theo, là những suy nghĩ. Suy nghĩ rất là thú vị, vì theo nhiều cách, chúng giống như nhận thức, ngoại trừ việc nó không chỉ tồn tại với những gì xảy ra ở hiện tại, mà cả những thứ ta nhớ từ quá khứ và thứ ta mong chờ ở tương lai. Một điều khác rất thú vị về suy nghĩ là, suy nghĩ có thể vừa phản xạ, chúng có thể xảy mọi lúc, kiểu như cửa sổ pop-up trên trình duyệt, hay chúng có thể là có chủ đích. Ta có thể quyết định có một suy nghĩ. Thực tế, ngày bây giờ bạn có thể quyết định có một suy nghĩ giống như bạn quyết định viết một thứ gì đó lên giấy. Bạn có thể quyết định rằng mình nghe một podcast. Bạn không chỉ tập trung vào thứ đang diễn ra, bạn đang chỉ đạo quá trình suy nghĩ của mình. Rất nhiều người không hiểu, hay ít nhất là không trân trọng rằng, mẫu hình suy nghĩ và các mạch neuron nằm dưới suy nghĩ có thể được điều khiển theo cách có chủ đích này.

Hành động
Và cuối cùng, ta có hành động. Hành động hay hành vi có lẽ là khía cạnh quan trọng nhất của hệ thần kinh. Vì trước tiên, hành vi của ta thực sự là thứ duy nhất sẽ tạo ra minh chứng cho sự tồn tại của mình (gốc: fossil record of our existence). Sau khi ta chết, hệ thần kinh hư hỏng dần, xương thì vẫn còn. Nhưng tại thời điểm trải nghiệm một thứ gì đó rất vui vẻ, hay thứ gì đó rất buồn, cảm giác có thể rất là hoàn thiện, đến mức ta thực sự nghĩ rằng nó có một ý nghĩa nào đó vượt trên cả khoảnh khắc đó. Những thật ra, với con người, và tôi nghĩ là với mọi giống loài, cảm nhận, nhận thức và suy nghĩ và cảm giác mà ta có trong vòng đời, chẳng có gì trong số chúng thực sự tiếp tục tồn tại, ngoại trừ những thứ ta chuyển hoá thành hành động như viết, từ ngữ, tạo ra những thứ mới. Nên là "bằng chứng hoá thạch" của giống loài chúng ta và của mỗi người trong số chúng ta là thông qua hành động. Và đó, một phần là lý do vì sao rất nhiều phần của hệ thần kinh dành hết cho chuyển hoá cảm nhận, nhận thức, cảm giác, và suy nghĩ thành hành động. Thực tế, nhà thần kinh học vĩ đại, nhà sinh lý học Sherrington đã thắng giải Nobel cho công trình của ông về lập bản đồ một số mạch - những kết nối giữa những tế bào thần kinh - mà gây ra chuyển động. Và ông đã nói, "Chuyển động là con đường (pathway) chung sau cùng". Cách khác để liên tưởng về điều này là: một trong những lý do mà hệ thần kinh trung ương, não và tuỷ sống, bao gồm trong nó thứ nằm trong hộp sọ và cả những kết nối chằng chịt giữa nó và cơ thể, là vì hầu hết mọi thứ ta trải nghiệm, kể cả suy nghĩ và cảm giác, thực sự đã được thiết kế để hoặc ảnh hưởng lên hành vi của ta hoặc không. Và sự thật rằng suy nghĩ cho phép ta vươn tới quá khứ và kỳ vọng tương lai mà không chỉ trải nghiệm những gì xảy ra ở hiện tại, là nguồn gốc của một tiềm năng kỳ diệu, một tiềm năng giúp ta thực hiện những hành vi không chỉ vì hiện tại, mà dựa trên những gì đã biết từ quá khứ, và những gì ta mong sẽ thấy ở tương lai.
Và khía cạnh tạo ra chuyển động này của hệ thần kinh, xuất hiện thông qua một số con đường rất đơn giản. Con đường phản xạ cơ bản là bao gồm những khu vực của cuống não (brain stem), ta gọi là central pattern generators (bộ phát sinh mẫu hình trung ương). Khi bạn đi bộ, giả dụ bạn đã biết đi bộ, bạn đi bộ là vì bạn có những central pattern generator này, những nhóm neuron phát sinh ra kiểu chuyển động chân phải, chân trái, chân phải, chân trái. Tuy nhiên khi bạn định di chuyển theo một cách đặc biệt có chủ đích, thứ sẽ cần thêm một chút sự tập trung, bạn bắt đầu sử dụng những phần của não cho xử lý từ trên xuống, tại đó não trước (forebrain) làm việc từ trên xuống để kiểm soát những central pattern generator đi bộ, nên có thể là chân phải, chân phải, chân trái, chân phải, chân phải, chân trái, nếu bạn đang đi bộ trên đường đá hay gì đó và bạn buộc phải sử dụng kiểu chuyển động này. Nên là chuyển động, cũng giống như suy nghĩ, có thể là phản xạ hoặc có chủ đích. Và khi ta nói về có chủ đích, tôi muốn nói chi tiết về cách mà não hoạt động theo một cách có chủ đích, vì điều này tạo nên một đặc trưng rất quan trọng của hệ thần kinh mà ta sẽ nói sau, đó là khả năng tự thay đổi hệ thần kinh. Điều tôi muốn tập nói trung vào bây giờ là khái niệm: hệ thần kinh làm việc gì đó có chú đích nghĩa là thế nào? Khi bạn làm thứ gì đó có chủ đích, bạn tập trung, bạn sử dụng nhận thức phân tích ba thứ: thời gian, một thứ sẽ kéo dài bao lâu hay nên được làm trong bao lâu, đạo (path), thứ bạn nên làm, và kết quả, nếu bạn làm một thứ trong một khoảng thời gian xác định, điều gì sẽ xảy ra. Nếu bạn đi trên đường, hay ăn , hay chỉ nói chuyện một cách phản xạ, bạn đang không làm điều này, thứ mà tôi gọi là DPO, duration (thời gian), path (đạo), outcome (kết quả), một kiểu chức năng có chủ đích trong não và hệ thần kinh. Nhưng khoảnh khắc mà bạn quyết định học thứ gì đó, hoặc không chịu nói, hoặc nói to lên trong khi bạn thích im lặng. Bất cứ khi nào bạn cố tình đẩy bản thấn quá một ngưỡng, bạn đang sử dụng những mạch não này và những mạch hệ thần kinh này, điều này đột nhiên khiến ta cảm giác như có thứ gì đó thách thức. Có gì đó đã thay đôi, Ờ, cái gì thay đổi? Thứ thay đổi là khi bạn tập trung vào kiểu suy nghĩ DPO, hay hành vi DPO hay cách thức tồn tại DPO, bạn bắt đầu tuyển mộ những neuromodulator được giải phóng từ những vùng cụ thể trong não và cả từ cơ thể và chúng bắt đầu ra hiệu cho hệ thần kinh, có gì đó khác biệt khi tôi đang làm, đang cảm nhận điều này.

Cách ta kiểm soát sự thôi thúc (impulse)
Hãy lấy một ví dụ, ai đó nói thứ gì đó làm trigger bạn. Bạn không thích và bạn biết là bạn không nên phản ứng. Bạn cảm thấy là "Ôi, mình không nên phản ứng, không nên phản ứng, không nên phản ứng". Bạn chủ động kiềm chế hành vi thông qua xử lý từ trên xuống. Não trước đang ngăn bạn nói những thứ bạn biết là không nên nói, hoặc bạn nên chờ rồi hãng nói, hoặc nên nói theo kiểu khác. Cảm giác sẽ như là lo âu và căng thẳng bở vì bạn thực sự đang đàn áp một mạch. Ta có thể thấy những ví dụ về điều sẽ xảy ra nếu bạn làm không tốt. Một số ví dụ đến từ trẻ em, nếu bạn nhìn vào trẻ em, chúng không có mạch não trước để thực hiện xử lý từ trên xuống đến tận khi chúng đến tầm 22 tuổi, thậm chí 25. Nhưng ở trẻ nhỏ, bạn thấy điều này một cách nổi bật, ta sẽ thấy chúng rung người về đằng trước đằng sau, chúng khó mà ngồi yên, vì những central pattern generator liên tục ngầm chạy. Trong khi người trưởng thành có thể ngồi yên. Một đứa trẻ nhìn vào một cái kẹo mà chúng muốn và chúng sẽ rướn lên mà nắm lấy nó. Trong khi người lớn sẽ xin phép, hoặc chờ đến khi họ được mời, trong hầu hết các trường hợp. Những người bị tổn thương ở những phần nhất định của thuỳ trán (frontal lobes) không có sự giới hạn này. Họ cứ xổ hết ra, họ sẽ nói đủ thứ, ta đều biết những người như vậy. Sự bốc đồng (impulsivity) là sự thiếu kiểm soát từ trên xuống, thiếu xử lý từ trên xuống. Một thứ khác làm tắt não trước và làm ta khó thực hiện xử lý từ trên xuống hơn là một số loại nước chứa cồn. Sự loại bỏ chất ức chế thực ra là loại bỏ ức chế thần kinh, của những tế bào thần kinh đè nén hoạt động của những tế bào thần kinh khác. Nên khi bạn nhìn vào những người bị tổn thương thuỳ trán, hay bạn nhìn vào cún con, hay nhìn vào trẻ nhỏ, với họ thứ gì cũng là một tác nhân kích thích. Thứ gì cũng có tiềm năng tương tác và họ phải rất khó khăn để kiểm soát hành vi và phát ngôn. Nên là rất nhiều phần của hệ vận động (motor system) được thiết kế để chỉ đơn thuần là hoạt động một cách phản xạ. Nên là khi ta quyết định mình sẽ học thứ gì đó, hoặc làm gì đó, hoặc không làm gì đó. Ta cần phải tập trung vào kiểm chế từ trên xuống, và cảm giác sẽ như là bối rối vì nó đi cùng với sự giải phóng của một neuromodulator gọi là norepinephrine, thứ trong cơ thể ta gọi là adrenaline. Và thực sự nó làm ta cảm thấy lo âu, bồn chồn. Nên là với những ai cố gắng học điều gì đó mới hoặc học cách kiềm chế phản ứng của bản thân hay muốn trở nên chủ động và cẩn trọng hơn trong phản ứng, bạn sẽ cảm thấy thách thức vì một lý do rất cụ thể. Vì những hoá chất trong người bạn được giải phóng cùng với nỗ lực đó được thiết kế để làm cho bạn cảm thấy lo lắng. Cơn rùng mình nhẹ mà đôi khi người ta sẽ cảm thấy khi họ cực kỳ, cực kỳ tức giận, thực ra là một chất hoá học gây ra rùng mình nhẹ (low-level tremor). Và thứ mà tôi gọi là limbic friction (ma sát vùng limbic, từ nguyên: limbo - sự lấp lửng), có một vùng trong não bạn liên quan đến những phản ứng mang tính phản xạ có tính nguyên thuỷ hơn, được gọi là hệ limbic, và frontal cortex (vùng vỏ não trước trán) phải chịu một ma sát, lúc nào cũng phải ở trong một cuộc kéo co với hệ limbic. Dĩ nhiên trừ khi bạn có tổn thương vùng thuỷ trán hay khi bạn uống quá nhiều hay gì đó, lúc đó bạn có xu hướng nói hoặc làm bất cứ thứ gì. Việc hiểu điều này rất quan trọng nếu bạn muốn hiểu về neuroplasticity (khả biến thần kinh, tính mềm dẻo của thần kinh), muốn hiểu cách để chỉnh đốn hành vi, cách để chỉnh đốn suy nghĩ, cách để thay đổi khả năng theo bất kỳ ngữ cảnh nào, thứ quan trọng nhất cần phải hiểu là nó cần đến xử lý từ trên xuống.
 
Nên có nhiều thread này ở trên xam hơn. Có thằng nào vô tranh luận càng tốt. Ủng hộ
 
Top