Di sản vĩ đại nhất lịch sử dân tộc Việt Nam của tu sĩ Bồ Đào Nha để lại: CHỮ QUỐC NGỮ

images

Francisco de Pina

Ngôn ngữ là một phần không thể tách rời trong văn hóa của mỗi dân tộc. Và chữ viết chính là hình thức cụ thể nhất để lưu giữ và truyền bá ngôn ngữ ấy. Đối với người Việt, hệ thống chữ viết của chúng ta đã trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, từ chữ Hán, chữ Nôm đến chữ Quốc ngữ. Sự ra đời và phát triển của chữ Quốc ngữ đánh dấu một mốc son quan trọng trong lịch sử văn hóa Việt Nam, góp phần làm phong phú thêm di sản của Việt Nam. May mà thời đó chưa có cộng sản nên Việt Cộng không nhận vơ được

1. Nguồn gốc chữ Quốc ngữ


Chữ Quốc ngữ được hình thành bởi các tu sĩ Dòng Tên trong quá trình truyền đạo Công giáo tại Việt Nam đầu thế kỷ 17 dưới sự bảo trợ của Bồ Đào Nha. Trong đó, Francisco de Pina là nhà truyền giáo đầu tiên thông thạo tiếng Việt, ông đã bắt đầu xây dựng phương pháp ghi âm tiếng Việt bằng chữ cái Latinh. Giáo sĩ Alexandre de Rhodes là người có công hệ thống hóa và định chế hóa chữ quốc ngữ qua cuốn từ điển Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum in năm 1651 tại Roma. Ông cho biết mình đã biên soạn cuốn từ điển này dựa trên hai từ điển (nay đã thất truyền) của Gaspar do Amaral và Antonio Barbosa. Các nhà truyền giáo khác đóng góp trong lịch sử sơ khởi của chữ Quốc ngữ có thể kể đến như Francesco Buzomi, Christoforo Borri, Girolamo Maiorica, và Antonio de Fontes.

Bên cạnh đó, có các linh mục như Francisco de Pina, Alexandre de Rhodes và Philiphe Bỉnh, những người đã nghiên cứu và phát triển một hệ thống chữ viết dựa trên bảng chữ cái Latin, nhằm phục vụ công tác giảng đạo và truyền bá Thiên Chúa giáo vào Việt Nam.

Trong quá trình này, các nhà truyền giáo đã cố gắng tìm cách biểu diễn các âm tiết, ngữ âm và văn phạm tiếng Việt bằng các ký tự La-tinh. Họ đã sáng tạo ra các dấu được gọi là "thanh điệu" để đánh dấu các âm điệu của tiếng Việt, như dấu sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng để phân biệt với tiếng Anh, tiếng pháp... và thể hiện âm đọc của các chữ: ă, â, đ, ô, ơ, ư. Nhờ những sáng tạo đặc biệt ấy, chữ Quốc ngữ ghi được hầu như toàn bộ ngữ âm tiếng Việt từ cách nói đến cách đọc, từ các vùng miền của đất nước (kể cả phương ngữ và thổ ngữ).

chu%20quoc%20ngu%20A1(1).jpg


2. Sự phát triển và hoàn thiện chữ Quốc ngữ

Đáng chú ý, vào thế kỷ 19, dưới thời nhà Nguyễn, chữ Quốc ngữ đã được chính thức thừa nhận và sử dụng rộng rãi, đặc biệt là trong giáo dục và hành chính. Nhiều sách vở, văn bản chính thức được viết bằng chữ Quốc ngữ. Điều này đã góp phần thúc đẩy quá trình chuẩn hóa và phổ biến chữ Quốc ngữ trong toàn xã hội. Bên cạnh đó, việc học chữ Quốc ngữ đã lan rộng ra khắp cả nước, gắn với các phong trào cải cách trong giai đoạn 1890–1910 như Hội Trí Trị, Phong trào Duy Tân, Đông Kinh Nghĩa Thục, công nhận việc học chữ Quốc ngữ là mục tiêu hàng đầu để nâng cao dân trí. Theo tư liệu trong "Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày thành lập Hội Truyền bá Quốc ngữ (25/5/1938)" do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức ngày 25/5/2008, thì Hội ra đời ngày 25/5/1938, đến ngày 29/7/1938, Thống sứ Bắc Kỳ người Pháp công nhận sự hợp pháp của Hội. Đó là dấu mốc chắc chắn cho vị thế "chữ Quốc ngữ".

Sau khi ra đời, chữ Quốc ngữ đã trải qua quá trình phát triển và hoàn thiện kéo dài nhiều thế kỷ. Các nhà nghiên cứu, học giả và nhà in ấn tiếp tục cải thiện và chuẩn hóa hệ thống chữ viết này, góp phần làm cho chữ Quốc ngữ ngày càng trở nên hoàn thiện và phổ biến rộng rãi. Đầu thế kỷ 20, các nhà nghiên cứu và học giả đã tiến hành cải cách chính tả và chuẩn hóa quy tắc viết chữ Quốc ngữ. Họ đã thống nhất các quy tắc về cách sử dụng dấu thanh, cách viết các mẫu tự và các từ vựng. Điều này đã giúp chữ Quốc ngữ trở nên nhất quán và dễ học hơn.

quoc-ngu.jpg


Đến nay, chữ Quốc ngữ đã trở thành hệ thống chữ viết chính thức của tiếng Việt, được sử dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Chữ Quốc ngữ không chỉ là công cụ ghi chép tiếng Việt mà còn là một trong những biểu tượng văn hóa độc đáo của dân tộc Việt Nam.

Tóm lại, chữ Quốc ngữ là kết quả của một quá trình lịch sử lâu dài, gắn liền với sự giao thoa văn hóa giữa Việt Nam và phương Tây. Nó không chỉ là một hệ thống chữ viết mà còn là một di sản văn hóa quý giá, góp phần khẳng định bản sắc dân tộc Việt Nam.
rhodes.jpg

Alexandre de Rhodes
Công lao dứt hẳn chữ Hán của vua Khải Định

Mùa hạ năm Kỷ Mùi 1919 đã ghi 1 dấu ấn vĩ đại thứ nhì sau chữ quốc ngữ được sáng tạo ra vào lịch sử Việt Nam một sự kiện đáng nhớ: kỳ thi hội và thi đình tổ chức lần cuối. Lời của vua Khải Định được chép nhiều lần trong sách Khải Định chính yếu: “Kỳ thi năm nay là khoa thi cuối cùng, đường khoa cử từ đây dứt hẳn”.
Tuy nhiên, việc bãi bỏ nền khoa cử gần 1.000 năm được trọng dụng, thậm chí là tôn sùng ở Việt Nam, cũng phải chịu nhiều sự phán xét của người đời sau đó.
FtoZGjvS.jpg


Năm 1917, phủ Toàn quyền Đông Dương đã ban nghị định, quy định lại bộ máy giáo dục với ba bậc: tiểu học, trung học và đại học. Bậc tiểu học có ba cấp: sơ học (văn bằng: sơ học yếu lược), tiểu học (văn bằng: sơ học Pháp - Việt), cao đẳng tiểu học (dành cho người đỗ primaire học tiếp lấy bằng thành chung, văn bằng: diplome). Bậc trung học: dạy cho những người đã có bằng thành chung (văn bằng: tú tài bản xứ). Bậc đại học, từ năm 1919 mới có, với các trường Y khoa, Dược khoa, Luật khoa, Nông lâm, Công nghệ thực hành (Bách khoa), Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương.

Sách Khải Định chính yếu (ghi lại các sự kiện thời Khải Định) chép rằng tháng giêng năm 1919, sau khi Bộ Học đệ trình lên nhà vua về thể thức kỳ thi hội với những thay đổi, vua Khải Định liền phê: “Lần này là khoa thi hội cuối cùng của triều đình, nên trẫm muốn gia ân cho sinh viên sĩ tử khoa mục trong cả nước, hễ ai thông thạo hai thứ chữ Nho và chữ Pháp thì trình diện Bộ Học để xin vào ứng thí”.
Sách Quốc triều đăng khoa lục (ghi lại diễn biến các kỳ thi hội và thi đình triều Nguyễn) của Cao Xuân Dục cho biết thêm không chỉ các cử nhân mà cả những người chưa có học vị gì nếu xét thấy có thực tài thì quan đầu tỉnh lập danh sách cho vào kinh thi hội.

Lệ định cho khoa thi hội này cũng có nhiều thay đổi. Vòng thi thứ nhất, ngoài các bài thi về văn sách, kinh nghĩa, truyện và thời sự, thí sinh còn phải làm một bài về sử Việt Nam và một bài về sử phương Tây (thay cho sử Trung Quốc). Vòng thi thứ ba, ngoài hai bài toán thì phải làm một bài luận bằng chữ quốc ngữ bắt buộc. Vòng thi thứ tư, dịch một bài quốc ngữ sang tiếng Pháp và dịch một bài Pháp ngữ sang Hán ngữ, cùng với một bài luận bằng Pháp ngữ bắt buộc (các kỳ thi hội trước đó, tiếng Pháp chỉ là khuyến khích dùng mà thôi, không bắt buộc).

Tháng 4 năm đó, kỳ thi hội diễn ra tại kinh đô Huế, chủ yếu chỉ là thí sinh ở Trung kỳ ứng thí. Sĩ tử ở Bắc kỳ cũng đã rã rời do khoa cử ở ngoài đó đã bãi bỏ từ sau khoa thi hương 1915. Tạp chí Nam Phong số 17 tháng 11-1918 cho hay các cử nhân Bắc kỳ vẫn được vào thi, “nhưng phủ Thống sứ Bắc kỳ có nói trước với Bộ Học trong kinh biết rằng người nào đỗ tiến sĩ hay phó bảng, tuy vẫn còn giữ cái danh dự cũ mà không đủ quyền được vào quan trường như trước nữa”.

Theo quy định thì có năm bài thi bị liệt vào hạng rớt, nhưng vua Khải Định đã gia ân lấy thêm năm thí sinh này, rồi cho vào thi đình. Ngày 16-5-1919 (nhằm 17-4 âm lịch), kỳ thi đình cuối cùng diễn ra trong cung vua.

Đề thi do chính nhà vua ra, nội dung cũng đã hàm ý về một thời kỳ mới đang bày ra trước mắt: “Các nước trên khắp hoàn cầu sôi động nói đến văn minh. Vậy hai chữ văn minh có xuất xứ từ sách vở nào?... Các ngươi với tài kinh luân vốn có, hãy thử trình bày rõ ràng kiến giải của mình, không bè phái, thiên lệch, không a dua, quanh co, xuyên tạc khiến sai sót khi đem thực hành, cũng đừng quá khéo dùng lời lẽ bay bướm mà trống rỗng, chẳng có được phương sách gì hay, để trẫm thu lượm rồi thử áp dụng”.

Khoa thi đình năm ấy không căn cứ vào điểm số của các kỳ thi hội để xếp hạng tiến sĩ (như định lệ trước đó), mà chỉ dựa vào “văn lý” để định thứ bậc tiến sĩ tân khoa. Theo đó, vua đã ban đỗ cho bảy tiến sĩ, 16 phó bảng.

Đỗ cao nhất kỳ thi cuối cùng này là Nguyễn Phong Di, người huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa, với học vị đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.

Một tuần lễ sau đó, ngày 24-5, lễ truyền lô cuối cùng được diễn ra tại điện Cần Chánh. Vua Khải Định chủ tọa nhưng bên cạnh đã có thêm sự hiện diện của viên khâm sứ Trung kỳ (đại diện cho Chính phủ Pháp ở Trung kỳ) và các quan chức cao cấp khác của Pháp.
 
Sửa lần cuối:
Thằng Lồn này tao đoán dân thiên chó giáo.
Đụ mẹ mày bị bọn heo chó cha xứ tẩy não vcl.
Đụ má mày cái chữ Lồn của thằng bố mày tuyên truyền khác hoàn toàn chữ mày đang dùng nhé
 
Tưởng tượng ngày xưa đéo có mấy lão giáo sĩ vì muốn truyền đạo mà tạo ra cái chữ này thì con vịt với cái mớ chữ nôm sẽ ngàn năm tăm tối đến khi nào nữa :haha:
 
Tưởng tượng ngày xưa đéo có mấy lão giáo sĩ vì muốn truyền đạo mà tạo ra cái chữ này thì con vịt với cái mớ chữ nôm sẽ ngàn năm tăm tối đến khi nào nữa :haha:

Chữ quốc ngữ đnag dùng khác chữ của tml thiên chó giáo kia
 
Chữ quốc ngữ đnag dùng khác chữ của tml thiên chó giáo kia
Post lên đi súc sinh,post chữ ngày xưa lên coi khác gì với hiện tại,đụ mẹ cái dân tộc ngu dốt mượn tiếng hán về làm tiếng nôm,được tây khai phá văn minh mà vẫn sủa như chó được
 
Post lên đi súc sinh,post chữ ngày xưa lên coi khác gì với hiện tại,đụ mẹ cái dân tộc ngu dốt mượn tiếng hán về làm tiếng nôm,được tây khai phá văn minh mà vẫn sủa như chó được
Ngày xưa người ta gọi là "cái phin" nghe rất phèn, Bắc kỳ sửa lại thành "cái nồi ngồi trên cái cốc" nghe vô cùng thanh tao, trí tuệ
 
Thiên chó giáo câm mồm

Bố mày dị ứng nhất thiên chó giáo, phật giáo, Tuệ con

Tóm lại là lũ súc vật óc lồn.

Mày dám bảo đụ mẹ dê xù chó lợn ko
Bác Hồ nhà mài sáng tạo ra được cái củ cải gì nào ;))
 
nhờ mấy lão này mà 1 phần vn như hôm nay, chứ k thôi giờ dùng chữ tượng hình cmnr
dù sao cũng đỡ hơn mấy thằng quốc đảo, tới đéo khác gì thời cổ đại
 
Tội nghiệp bọn ngu này
Súc sinh có hình ảnh hay tài liệu chữ quốc ngữ lúc xưa thì post lên,đéo có tây lông hay thiên chúa thì giờ xài chữ nôm như thằng tàu chó rồi,chữ mày đang xài là do tây lông với thiên chúa tạo ra đó thằng ngu,còn ko thì xài chữ nôm hay chữ hán đi thằng ngu
 
ko có chữ quốc ngữ thì sau này cũng có chữ parky à - người bắc giỏi nắm kiểu lào chả nàm được :feel_good:
 
Post lên đi súc sinh,post chữ ngày xưa lên coi khác gì với hiện tại,đụ mẹ cái dân tộc ngu dốt mượn tiếng hán về làm tiếng nôm,được tây khai phá văn minh mà vẫn sủa như chó được
Cho mày đọc chữ tml cha xứ kia tao đảm bảo mày đéo đọc, đéo hiểu dc.
Ít học thì câm mồm đi, chịu khó tìm hiểu.
Người khác đéo phải dạy mày.
Trừ khi mày trả tiền để dc dạy
 
Sản phẩm chữ quốc ngữ của Annam hiện nay là minh chứng cho việc tại sao phương Tây là cái nôi của khoa học hiện đại.

Vì chúng nó đã làm việc gì thì chú tâm dốc sức làm nghiêm túc. Đến mỗi cái việc truyền giáo cho Annam mà cũng tạo ra luôn cả bộ chữ cho đám ăn lông ở lỗ dùng.
 
Cho mày đọc chữ tml cha xứ kia tao đảm bảo mày đéo đọc, đéo hiểu dc.
Ít học thì câm mồm đi, chịu khó tìm hiểu.
Người khác đéo phải dạy mày.
Trừ khi mày trả tiền để dc dạy
Vẫn là chữ QN đó, chỉ là dần cải tiến cho phù hợp phát âm tiếng Việt. Mấy ông truyền giáo này phải nhờ các cộng sự người Việt nữa thành nhóm để nghe và ghi âm phát âm tiếng việt. Thế là quá vĩ đại rồi, vứt mẹ nó chữ que gậy.
 
Ý NÓ LÀ ..NÓ THẤY NHỤC ĐẤY VÌ CHỮ ĐÉO PHẢI DO NGƯỜI VIỆT
DM THỬ XEM MẤY NƯỚC CÓ CHỮ ...CHỮ VIỆT GỐC CÓ HẲN HOI ..LỊCH SỬ BỊ THÔNG TRỊ ĐÃ XOÁ MẤT
BỌN CHÓ LUÔN MUỐN LIẾM ĐÍT NGOẠI BANG
 

Có thể bạn quan tâm

Top