Lời tựa của tùy bút NHỚ LẠI
Hồi ký của bác sỹ Vũ Thị Chín
*******************************
Những trang dưới đây là ký ức - một sự nhớ lại những kỷ niệm về các cảnh vật đã hiện diện, những con người đã chung sống và gặp gỡ cùng biết bao sự kiện đã từng xảy ra trên những chặng đường đã qua.
Gọi là tùy bút vì được viết tùy thích, tùy hứng, bất kể lúc nào, theo dòng chảy của hồi ức. Những kỷ niệm hình ảnh, sự kiện nối tiếp nhau xuất hiện như con tằm rút ruột nhả tơ, rồi bỗng nhiên chựng lại. Cũng không được bao lâu, sau một thời gian ngắn, có khi qua vài đêm thao thức, một khoảnh khắc của quá khứ xa xưa tưởng như đã bị quên lãng đó lại tái hiện rõ mồn một.
Thế mới hiểu tại sao, vào những năm cuối đời, nhiều người hay viết hồi ký. Có lẽ đó là một nhu cầu. Một số người viết với mục đích để con cháu biết những điều trước đây chưa có dịp, chưa thể nói được. Một số khác, trong đó có tôi, viết để tìm lại chính mình, một kiểu tự sự. Có người không viết mà kể cho một người khác nghe, tâm sự với người đó. Người nghe, cấu trúc biên tập lại. Câu chuyện sẽ có thể mang chất văn học hơn, nhưng một phần giá trị chân thực sẽ bị giảm bớt do có sự đan xen cảm nhận của người được nghe đương sự kể. Tính chân thực sẽ được bộc lộ trên những trang viết tự nhiên bình dị, không tỉa tót, của người tự viết câu chuyện về cuộc đời của chính mình.
Không ai thấu hiểu mình bằng chính bản thân mình. Cuộc đời của mỗi người là của riêng người đó, không giống với của bất cứ ai.
Thu đông Kỷ Sửu 2009 -
Xuân Canh Dần 2010
Vũ Thị Chín
-----------------
NHỚ LẠI
Hồi ký của bác sỹ Vũ Thị Chín (*)
(trích I)
(*) Bác sỹ Vũ Thị Chín sinh năm 1924, tốt nghiệp bác sỹ năm 1952 tại Đại học Y khoa Hà Nội, tốt nghiệp chuyên khoa nhi năm 1954 tại Đại học Y khoa Paris, hiện sống tại Hà nội.
*****************************************************************
Lời giới thiệu
___________
Sau khi cha tôi qua đời tháng 9/2009, vào dịp Thu Đông Kỷ Sửu 2009 và Xuân Canh Dần 2010, mẹ tôi đã viết phần I hồi ký của mẹ có tên "Nhớ lại", mà mẹ gọi là tùy bút. Mẹ đã trao cho tôi bản photocopy bản thảo hồi ký đó để tôi soát lỗi, kèm lời dặn không cho ai khác xem để tránh thắc mắc những đoạn trong hồi ký liên quan đến họ hàng và những người khác còn sống. Sau khi đi Nhật về vào tháng 5/2010, ở tuổi 86, mẹ tôi đã tự học sử dụng PC và internet, và đã viết tiếp phần 2 của hồi ký này bằng MS Word.
Vừa qua, tức 13 năm sau khi tôi nhận được bản thảo, Thùy Mai đã ngồi gõ lại toàn bộ phần I hồi ký của mẹ chồng thành Word file. Thùy Mai làm việc này một cách say sưa hàng ngày, liên tục trong liền 2 tuần lễ mới đánh xong. Thùy Mai nói vừa gõ chữ vừa đọc, thấy như sống thêm một cuộc đời khác - cuộc đời của mẹ chồng, cũng là một trong những người cuối cùng hiện còn sống của thế hệ vàng trí thức Việt giữa thế kỷ trước.
Trong hồi ký của mẹ, xen giữa những câu chuyện rất cảm động về tình yêu gia đình, hiện lên bức tranh đa sắc, đặc biệt là về nền giáo dục tại Hà Nội thời Pháp những năm 1940 - 1950 và tại Paris đầu thập niên 1950.
Nhận thấy những thông tin này có giá trị lịch sử, tôi đã xin phép mẹ cho công bố một số đoạn do tôi tự chọn, và đã được mẹ đồng ý.
Dưới đây và trong những post tiếp theo tôi sẽ lần lượt đăng một số trích đoạn như vậy.
N.Đ.Đ.
Lưu ý:
______
Độc giả có thể share nguyên văn trang này, dùng nút share của FaceBook, chứ không copy hay cắt dán vào FB của mình.
Tác giả giữ bản quyền: Không được đăng lại (toàn bộ cũng như trích đoạn) mà không có sự ưng thuận bằng văn bản của tác giả.
*
ĐẶT TÊN
Tôi sinh ra vào 9 giờ tối ngày 9 tháng 9 năm Khải Định thứ 9 (Lúc đó còn tục lệ dùng niên hiệu của vua) [1].
Đặt tên con, bố tôi có sẵn một bộ tên. Con trai giữ đệm Xuân của bố (Tên bố tôi là: Vũ Xuân Cuông). Con gái, bố chọn tên trong các loại chim hoặc các loài hoa. Hai chị lớn của tôi: Thúy và Uyên. Sinh chị thứ ba, bố đặt tên là Hương (gợi hương thơm của hoa). Đón đứa con thứ tư là tôi, bố tưởng được một thằng cu con, nên đã chuẩn bị chữ đệm Xuân, chỉ cần ghép thêm một tên con trai (Nguyên, Tú hoặc Quang…), nào ngờ lại thêm một con vịt giời nữa. Song rất thương con và thấy nó cũng khá cứng cáp, tròn trịa, nuột nà như giò phong lan hàng ngày bố thường chăm chút (ấy là khi tôi sắp đầy tháng) nên bố tôi thêm tên Lan vào chữ đệm đã có sẵn thành Xuân Lan. Tôi sinh ra vào mùa thu, đâu có phải vào mùa xuân! Rồi để dễ nhớ ngày sinh của tôi, toàn rơi vào con số 9, bố ghi thêm vào giấy khai sinh: Vũ Xuân Lan tức Vũ Thị Chín, coi tên chính của tôi là Xuân Lan, và tên Chín chỉ là ghi chú.
Cho đến 13 tuổi, ở nhà, đến trường, mọi người đều gọi tôi là Lan. Khi đang học năm thứ nhất trường trung học Pavie (Collège Pavie ở Vientiane - Lào) [2], là học sinh giỏi nhất về Pháp văn, tôi được nhà trường cấp học bổng gửi về Hà Nội học trường Lycée Albert Sarraut. Kiểm tra trình độ, tôi được nhận vào lớp năm (cinquième) của trường Lycée.
Vào trường Tây, tên Xuân Lan khó phát âm hơn tên Chín đối với người nước ngoài, thầy cô giáo liền bỏ rơi luôn tên Xuân Lan và gọi tên tôi là Chín cho dễ. Từ đó đến nay, danh xưng của tôi trở thành Vũ Thị Chín. Chỉ những người thân trong gia đình và những người quen biết từ bé, mới vẫn tiếp tục gọi tôi bằng cái tên Lan thân thương mà tôi rất yêu mến vì nó gắn bó với cả thời thơ ấu đầy ắp những kỷ niệm khó quên.
Với cái tên Chín, tôi như khoác một chiếc áo mới, nghiêm trang, để ra ngoài xã hội, bước vào một thế giới khác hẳn với môi trường thiên nhiên có những con người chân chất, mộc mạc, những vật thể hầu như còn nguyên sơ mà tôi hằng được sống cùng, thời trước 13 tuổi.
Việc đổi tên đã đánh dấu bước ngoặt đó.
(...)
TRƯỜNG LYCÉE ALBERT SARRAUT
Từ Lào về học trường trung học Lycée mang tên của toàn quyền Albert Sarraut khi năm học đã bắt đầu, tôi phải gấp rút vượt qua cửa ải kiểm tra học lực để được nhận vào lớp năm (cinquième).
Sau năm năm tiểu học (từ onzième - lớp 11, đến hết septième - lớp 7), hệ trung học bắt đầu từ lớp sáu (sixième) và kết thúc sau khi đạt bằng tú tài năm thứ nhất (Baccalauréat première partie). Ở năm thứ hai tú tài, có sự phân ban: ban triết học (Philosophie) và ban khoa học (Sciences), lúc đầu chỉ mới có ban toán (Mathématiques), đến khoá của tôi (1943-1944) mở thêm ban triết - khoa học (Philo-Sciences). Sự phân ban này nhằm định hướng học sinh chuẩn bị bước vào đại học.
Thi vào cinquième, tất cả các môn tôi không ngại, trừ Anh văn. Học sinh ở đây, từ sixième (lớp 6) đều đã qua một năm học Anh văn, mỗi tuần hai tiết, còn tôi hoàn toàn mù tịt vì chưa hề được học. Tìm được cuốn sinh ngữ Anh văn (Anglais vivant), tôi tập trung vào việc tự học là chủ yếu, theo kiểu học vỡ lòng Pháp văn, chỗ nào vướng mắc thì hỏi Xiển, em họ tôi lúc đó đang học tú tài trường Bưởi, và trọ học ở nhà cậu tôi. Tôi hồi hộp đứng trước bà Boyer - dạy Anh văn lớp năm có tiếng là “hắc” so với cô Wilkin dạy lớp sáu - lo do thiếu tự tin vào thực lực, mới cày cuốc hơn nửa tháng. Cuộc kiểm tra mở đầu bằng hỏi và trả lời, không đến nỗi “hắc búa”, chỉ là: “Tên là gì? - Bao nhiêu tuổi? - Ngày tháng năm sinh? - Bố mẹ làm gì? - Có bao nhiêu anh chị em? - Sở thích những gì?” Trả lời không bị vấp váp vì đã có sự chuẩn bị sẵn, tôi hơi vững tâm khi bà Boyer gật đầu nói: “Good.” Bước tiếp theo lại chẳng được OK cho: Bà Boyer đưa tôi đọc một đoạn bài (text) trong một cuốn sách. Sau này tôi mới biết đó là một quyển truyện học sinh lớp năm đang đọc. Tôi tưởng đọc được trôi chảy, nhưng bà Boyer lắc đầu lia lịa, nhăn mặt, chặn tôi lại, và thốt lên bằng tiếng Pháp: “Chúa ơi! Đọc tiếng Anh mà ngữ điệu và phát âm như tiếng Pháp thì không ổn đâu con ạ”. Bà cứ lặp đi lặp lại: “Không ổn đâu, con ạ!” (Ça ne va pas, ma petite.) “Người Anh nghe con sẽ không hiểu con nói thứ charabia gì.” (charabia: tiếng khó hiểu). Rồi bà nhún vai: “Enfin.” (Thôi vậy). Tôi băn khoăn không biết liệu “Thôi vậy của bà ngụ ý gì? Bà có cho qua không?” Và tôi rất mừng khi nhà trường cho biết tôi đã được chấp nhận vào lớp năm với kết quả khả quan. Có lẽ điểm của các môn khác đã gánh đỡ cho điểm Anh văn, hẳn không phải là con số đẹp.
Tôi đã đứng trong hàng ngũ những bạn cùng lớp.
Sau này, bạn Tuấn Lan (Phạm Thị Tuấn), Việt Kiều Pháp, gặp lại sau 50 năm, có lần nói với tôi: “Hồi đó bọn tôi cũng ngạc nhiên. Vào trường Sarraut không dễ. Ngoài học sinh Pháp, học sinh Việt Nam một là phải con nhà quyền quý, con quan hay công chức cao cấp, hai là phải học từ onzième (lớp 11). Nếu đến sixième (lớp 6) mới xin vào, ngoài điều kiện thứ nhất, còn phải thi, không ít người trượt.” Từ seconde (lớp 2), phần nhiều sau khi đỗ Brevet Elémentaire ở trường Félix Faure chuyển sang, như Nguyễn Thị Nhị, Nguyễn Thị Tính, hai chị em Raymonde Gilles v.v. Sau diplome và tú tài phần thứ nhất, do các trường khác, chủ yếu là trường Bưởi, chưa có phân ban triết, nên một số học sinh trường này đã thi vào, như Nguyễn Đình Thi [3], ban triết học (Philosophie), chỉ ít lâu sau khi được chuyển sang đã nổi tiếng về học lực. Trong khi đó, ở ban toán học (Mathématiques), Dương Trọng Bái [4] là học sinh xuất sắc. Bái học cùng tôi từ cinquème đến seconde, nhảy một lớp (tú tài phần thứ nhất) để khỏi hàng năm phải tranh giải thưởng xuất sắc (Prix d’Excellence) với tôi khi tổng kết niên học. Đó là theo lời anh nói với tôi sau này chứ hồi đó tôi đã kính nể anh, chẳng những đã học nhảy hơn tôi một lớp, vào một phân ban khó “nhằn” nhưng vẫn nổi trội. Những điều đó, chúng tôi đều để bụng thời học sinh, thời thi đua hay ganh đua “ngựa non háu đá”, đến tuổi thành ông thành bà, khi gặp lại, không ngần ngại kể ra tông tốc, thấy thời đó sao mà hồn nhiên và trẻ con đến thế.
Cùng trang lứa với tôi những bạn học khác - nhóm Classiques (Cổ Điển), học thêm tiếng Latin (nhóm A) và Hy Lạp (nhóm A*), thay vì cho Anh văn của nhóm B, có thể ngang lớp hoặc trên dưới một lớp, tôi không nhớ rõ, có Phạm Thị Nhu, Trần Thị Ân - sau này là một trong nữ giáo sư đầu tiên của Việt Nam, đại biểu quốc hội nhiều khóa, Trần Lệ Xuân - con gái của luật sư Trần Văn Chương - sau này kết hôn với Ngô Đình Nhu, “ngài cố vấn” của Ngô Đình Diệm. Hồi còn là học sinh trường Lycée, Trần Lệ Xuân là học sinh cá biệt, đã từng xé vở ngay trước mặt thầy giáo, do khi trả bài nhận phải điểm kém. Bị đuổi ra khỏi lớp, Lệ Xuân tỉnh bơ, thong dong đi chơi ngoài sân trường. Cuối năm, tổng kết học kỳ, hiệu trưởng Loubet triệu tập học sinh “điển hình” để huấn thị, Lệ Xuân thường phải đứng trong hàng ngũ học sinh bị khiển trách (blame).
Lệ Xuân có một chị là Trần Lệ Chi, học trên Lệ Xuân mấy lớp, khác hẳn cô em ngỗ ngược, từ bề ngoài nhẹ nhàng, thon thả, đến tác phong đi đứng, ngồi trên xe nhà đưa hai cô đi học. Trần Lệ Chi cùng với một số nữ sinh khác, nổi tiếng một thời, đã được chúng tôi gọi với biệt danh “Les Grandes” (Các chị lớn): Nguyễn Thị Hậu, hoa khôi được nhiều chàng trai theo đuổi; Đặng Mộng Lộc, sau này là giám đốc cửa hàng dược to nhất ở Hà Nội tạm chiếm, ngay ở trước nhà Godard (Gô-đa), đầu phố Hàng Khay, cạnh hồ Hoàn Kiếm; Nguyễn Thị Tuyết Mai, trưởng nữ của bác sĩ Nguyễn Văn Luyện, thỉnh thoảng được cha đưa đến bằng ô-tô mui trần, còn thường ngày đi học bằng xe tay nhà, bóng loáng. Chị Mai có mái tóc tết thành bím quấn quanh đầu, hay mặc áo dài xanh màu lá mạ, kênh kiệu và kiêu hãnh. Sau này tôi mới biết chị là đối tượng của mối tình đầu dai dẳng đơn phương của anh Nam, chồng tôi. Những đặc điểm của chị tôi nhớ khớp với những nét đã được diễn tả trong những vần thơ anh Nam đã đề tặng chị vào những năm 1940:
“Những buổi em đi học Lít-xê
(...)
Ngồi xe nhà trắng tuổi đôi mươi,
Là lúc tóc em đã vấn rồi,
Tóc vấn quanh đầu hay mũ miện
Của nàng công chúa thuở xa xôi.”
(Trích tập thơ "Tình và hận của tôi", 1995, của Nguyễn Đình Nam)
Nói chung , bọn chúng tôi thuộc lớp hậu sinh, luôn “kính nhi viễn chi” các chị lớn (Les Grandes), do chênh lệch tuổi tác và lớp lang, song chủ yếu là do kiểu cách, dáng vẻ đài các, con nhà trâm anh của hầu hết các chị đó.
Lớp tôi chỉ có Lê Thị Tý, có phong thái các “chị lớn”. Tý là con gái cưng xinh đẹp của ông Đốc kiểm học Lê Quang Hồng, nhà ở gần trường Lycée. Khác với bạn Alice Khuê, nhà cũng ở Quán Thánh nhưng đi bộ đến trường, Tý hàng ngày đi học bằng xe tay nhà, luôn có ông nội chống ba-toong đi cạnh, canh chừng không để chàng trai nào bám theo. Chân thường đi hài thêu cườm, Tý khoan thai từ xe bước xuống, qua cổng vào lớp, miệng tươi tắn, nở nụ cười chào các bạn. Bọn con gái chúng tôi thường hay nhạo Tý về cái vẻ kênh kiệu hơi cứng nhắc đó của bạn, song cũng tự hào về sắc đẹp của Tý, nhất là khi nhóm nữ sinh trường Félix Faure chuyển sang. Đó là lúc xem ai là hoa hậu, ai là á hậu một và hai. Có lẽ phần này ở trong tầm ngắm của học sinh con trai hơn là của con gái chúng tôi. Nói vậy cho vui thôi chứ mọi người đối xử với nhau trọng thị, nghiêm túc và lịch sự.
Vào lớp rồi, mọi cái “mác” bề ngoài, được dẹp một bên, chỉ còn ai học giỏi, ai học kém, ai là trò ngoan, ai hư. Ông Milhaud, có lúc thay bà Boyer dạy Anh văn, hãn hữu bắt gặp Tý nói chuyện trong lớp, gõ thước xuống bàn, cất giọng Marseille (một thành phố miền Nam nước Pháp bên bờ Địa Trung Hải) gọi Tý: “Lê-Ti-Ti! Lê-Ti-Ti [5]. Ta sẽ xuống ngay, uốn xoăn tóc của con” (Lê-Ti-Ti! Lê-Ti-Ti! Je vais descendre te frier), biết rằng Tý rất chăm mái tóc dài óng mượt.
Khác với Lê Thị Tý, Phạm Thị Tuấn không xinh bằng, cũng không chú ý trau truốt bề ngoài, nhưng nhanh nhẹn, thông minh, linh hoạt, phản ứng nhanh nhạy, có thằng Tây con nào trêu tức là thẳng tay đánh cho mấy cái vào lưng, bất kể ở trường hoặc đang đạp xe trên đường đi học về, đánh được xong, rụt cổ cười hí hí. Bạn còn có đặc điểm đi học hay trễ giờ. Đến muộn, cô ta rà sát tường rồi khe khẽ vào lớp, giải thích do ngủ quên, tỉnh dậy đạp xe hộc tốc đến trường rách cả gấu quần cũng vẫn không kịp. Nhớ đến Tuấn là nhớ đến cả những cái kẹp vẫn còn cặp nguyên ở gấu quần khi vào lớp.
(...)
Trong số các cô bạn lai, người thân nhất với tôi là Hortense Vouillon, con gái của cụ Vouillon, cụ già lai ươm trồng hoa có tiếng ở Ngọc Hà, học sinh trường Sarraut và trường Bưởi đều biết. Cụ có một vườn nhiều loại hoa quý được cụ vun trồng rất đẹp. Hai cô con gái của cụ đều đẹp như hoa. Chị Simone, tươi tắn, đậm đà, một thời là vợ ông Thẩm Hoàng Tín[6], nguyên thị trưởng Hà Nội. Hortense đẹp như một đóa hoa Hortensia (cẩm tú cầu) nhìn không chán mắt. Dáng người cao cao, thẳng và thon thả, mắt xanh ve, tóc hung hung, cắt ngắn, da ngăm ngăm bánh mật, má hồng, môi đỏ có độ dày mỏng vừa đủ để vành môi rõ nét, vừa nghiêm nghị vừa tươi tắn, sẵn sàng nở nụ cười đôn hậu, để lộ hai hàm răng trắng muốt, đều tăm tắp như những hạt bắp. Khi Hortense ngậm miệng, mím môi nghiêm trang nhìn thẳng, khuôn mặt của bạn, với sống mũi thanh thanh, dọc dừa, chẳng khác mặt tượng phụ nữ Hy Lạp, thường thấy trong các bức họa hoặc điêu khắc trong các bảo tàng và tạp chí mỹ thuật.
Hortense đã tập trung những nét đẹp nổi trội nhất của các cặp lai, ở đây của người bố lai Việt và của người mẹ Pháp. Tôi không được biết mẹ của Hortense, vì bà đã mất từ sớm. Hortense còn có những nét thùy mị và cái duyên kín đáo của người con gái Á Đông xưa, giản dị khiêm nhường.
Gặp lại sau 50 năm, khi Hortense trở lại cùng chồng Julien, một người cũng khá gắn bó với Việt Nam, bạn vẫn giữ nguyên được những nét xưa tuy đã hai thứ tóc trên đầu. Bạn thiết tha tìm gặp những bạn cũ, những người bạn trường Đại học Mỹ thuật, cùng di chuyển lên Sơn Tây sau Cách mạng tháng Tám. Hortense vô cùng sung sướng được tái kiến hai hoạ sỹ Mai Văn Hiến và Phan Kế An cùng khóa ở Sơn Tây cho tới ngày toàn quốc Kháng Chiến 19/12/1946.
Từ năm seconde trở đi, người bạn thân nhất, luôn ngồi cạnh tôi, là Nguyễn Vân Linh, con gái ông Bố Đào (Bố chánh hay Án sát ở một tỉnh nào đó tôi không quan tâm hỏi Linh). Sau này Linh trở thành vợ Đặng Vũ Trứ, con trai của bác sỹ Đặng Vũ Lạc[7]. Ông Bố Đào đông con, một số đi học, cùng ở một ngôi nhà giữa phố Bà Triệu. Hàng ngày đi học qua, tôi gọi Linh cùng đạp xe đến trường. Vào lớp hay ngủ gật, lo nhất bị mụ Boyer nhìn thấy, Linh dặn tôi cấu thật mạnh vào tay cho tỉnh ngủ. Bạn cũng ít chịu học bài, khi kiểm tra sử hay địa lý, cứ huých khuỷu tay tôi hỏi những địa danh bạn không nhớ. Bạn rất ủng hộ tôi và phần nào thiếu công bằng dè bỉu những bạn con trai nào đạt điểm hoặc phần thưởng cuối năm hơn tôi. Năm seconde, khi tôi được chọn dự thi Pháp văn toàn liên bang Đông Dương, bạn đã khuyến khích tôi và khi tôi đạt đồng giải nhì (không có giải nhất), bạn đã vui mừng thật sự.
(Còn tiếp)
Chú giải:
________
[1] Tức 9/10/1924. (Chú gỉải của N.Đ.Đ.)
[2] Quê nội của mẹ tôi ở Nam Định, nhưng gia đình ông ngoại tôi sang Lào làm ăn, nơi ông ngoại tôi dạy học. Mẹ tôi sinh ra và học tiểu học ở Thakkek, trung học ở Vientiane, trước khi về Hà Nội học Lycée Albert Sarraut vào năm 14 tuổi. (Chú gỉải của N.Đ.Đ.)
[3] Nguyễn Đình Thi (1924 - 2003), nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình văn học và người sáng tác ca khúc. (Chú gỉải của N.Đ.Đ.)
[4] Dương Trọng Bái (1924 - 2011), giáo sư vật lý, hiệu trưởng Đại học Sư phạm Hà Nội, con trai giáo sư Dương Quảng Hàm. (Chú gỉải của N.Đ.Đ.)
[5] Người Pháp không phát âm chữ h (h muet hay h câm) và các dấu trong ngữ âm tiếng Việt.
[6] Thẩm Hoàng Tín (1909 - 1991), dược sỹ và chính khách, thị trưởng Hà Nội từ 2/1950 tới 8/1952 trong chính phủ Quốc gia Việt Nam, đứng đầu lả quốc trưởng Bảo Đại - chính phủ tồn tại từ năm 1948 đến 1955, thuộc Liên bang Đông Dương trong khối Liên hiệp Pháp, thủ đô là Sài Gòn. (Chú gỉải của N.Đ.Đ.)
[7] Đặng Vũ Lạc, tốt nghiệp bác sỹ y khoa năm 1927 tại Paris, mở bệnh viện tư nhân đầu tiên ở Hà Nội có tên nhà thương Đặng Vũ Lạc, nay là bệnh viện tim ở 92 Trần Hưng Đạo. BS Đặng Vũ Lạc qua đời năm 1948. (Chú gỉải của N.Đ.Đ.)
-----------------
NHỚ LẠI
Hồi ký của bác sỹ Vũ Thị Chín (*)
(trích II)
(*) Bác sỹ Vũ Thị Chín sinh năm 1924, tốt nghiệp bác sỹ năm 1952 tại Đại học Y khoa Hà Nội, tốt nghiệp chuyên khoa nhi năm 1954 tại Đại học Y khoa Paris, hiện sống tại Hà nội.
*****************************************************************
HÀ NỘI
1 - Nhà cậu mợ và Foyer Lào
_________________________
Mẹ tôi và cậu Rư là chị em cùng bố khác mẹ. Cậu là con bà kế, bà có bốn con gái và ba con trai. Cậu là con trai út. Cậu còn được gọi là cậu tham, lấy tên chức vụ để xướng danh, vì cậu làm tham tá ở phủ thống sứ.
(...) Trở về Hà Nội, gần 5 năm sau (1937 - N.Đ.Đ.), ở tuổi xấp xỉ 14, để vào trường Lycée Albert Sarraut, tôi trọ ở nhà cậu mợ tại ngôi nhà 84 phố Thể Dục (tên Pháp là rue Wielé), nay là phố Tô Hiến Thành. Những năm học Lycée tôi được học bổng. Học phí không phải trả. Về tiền ăn ở tại nhà cậu mợ, tôi không rõ có sự thoả thuận thế nào giữa bố mẹ và cậu mợ, bố mẹ không cho tôi biết, đó là chuyện của người lớn. Có lần tôi loáng thoáng nghe chị Uyên nói: “Lúc mẹ lấy bố tôi, ông ngoại có cho mẹ tôi một số ruộng, nhưng khi bố mẹ sang Lào, bố mẹ để cho dì Cử Cẩn (em mẹ tôi) cày cấy thu hoa lợi. Tới khi tôi về Hà Nội học lycée, bố mẹ tôi có đề nghị dì Cử Cẩn trích một phần hoa lợi đủ chi phí ăn ở của tôi ở nhà cậu mợ”. Và đã không hề xảy ra khuất tất gì trong vấn đề này. Cậu mợ coi tôi như con cháu trong gia đình.
Ngoài ra, trong học bổng tôi còn được nhận mỗi tháng 10 piastres (mười đồng Đông Dương) để tiêu vặt. Tôi dùng số tiền này để mua sách vở giấy bút, thỉnh thoảng chữa xe đạp bị hỏng, làm lộ phí về thăm quê nội vào các kỳ nghỉ. Vé tàu Hà Nội - Nam Định một lượt lúc đó khoảng từ 2.5 đến 3 đồng Đông Dương.
Về quần áo, mỗi kỳ nghỉ hè về thăm gia đình, bố mẹ may cho vài bộ mặc cả năm. Từ bé tôi không cầu kỳ về ăn mặc, cốt sao cho tiện. Đi học bằng xe đạp, đội nón khi ngược gió, nón hay bị lật ngửa ra phía sau dễ đứt quai, nhìn sang hai bên cũng bị hạn chế, tôi đổi sang đội một chiếc mũ cát (casque) trắng, chắc nịch, có quai quàng xuống cằm. Guốc dép không quai hậu đạp xe hay bị rơi tuột, tôi sắm một đôi giày ba ta bằng da trắng, lúc nào lấm bẩn, chỉ cần chải bằng nước xà phòng, lau sạch chóng khô ngay. Giày đó rất bền nhé.
Các bạn cho tôi là ngô nghê, không biết làm dáng, chẳng có tý gì là con gái, hệt như con trai. Đúng thôi mà. Cả một thời còn bé, tôi đã chả mặc giả con trai đó sao? Xì xào bàn tán chán, thấy tôi vẫn “hồn nhiên” như thế, các bạn rồi cũng thôi. Song “đặc điểm” đó là một kỷ niệm thời học trò mà các bạn tôi hay nhắc lại khi gặp lại nhau nhiều năm sau này để cùng cười vui.
Phố Thể Dục, nơi có nhà cậu mợ tôi ở phía Nam thành phố, vuông góc với phố Bà Triệu. Phố này được kéo dài thêm về phía dưới với một số ngôi nhà hai tầng mới xây thêm về sau. Tại một trong những nhà này, trên một căn gác rộng, có một số học sinh Lào ở để đi học một số trường Hà Nội: trường Bưởi, trường Hoài Đức. Nhóm được tổ chức thành một tổ có tên Pháp “Foyer Lao” (Hội quán người Lào). Cai quản nhóm này là một công chức Lào, làm việc ở sở Liêm Phóng. Người ta cho đó chỉ nhằm che mắt mật thám Tây vì đa số học sinh của Foyer Lao sau này đều trở thành cán bộ lãnh đạo của Cách mạng Lào, như Kaysone, sau này trở thành Tổng bí thư Kaysone Phomvihane (1920 - 1992) của Đảng cách mạng nhân dân Lào; Chau Khampheng (1923 - 2011), bạn đồng môn với tôi ở trường Pavie, về học trường Hoài Đức, người sau này tham gia ban lãnh đạo Hội Phụ nữ Lào và trở thành phu nhân của Khamphay Boupha (1917 - 2009), đại sứ Lào đầu tiên ở Việt Nam.
Chị Hương và tôi hay đến Foyer Lao, thăm các đồng môn trường Pavie, vẫn nhớ phong cách đài các của Chau Khamphan, mảnh dẻ trắng trẻo; tính tình điềm đạm, thùy mị, nói năng khẽ khàng của Chau Khampheng, da ngăm ngăm đen. Khamphan và Khampheng đều là con gái Luang Prabang, búi tóc ngược nghiêng về một bên đỉnh đầu. Đi học trường Việt, nhưng họ chỉ mặc “xịn”(váy) với giải hoa văn ở gấu, quấn sát nửa người, rất lịch sự.
Ồn ào nhất nhóm là Kaysone vui vẻ và tinh nghịch. Sau này, nhà tôi, đồng môn với Kaysone ở trường Bưởi, kể rằng Kaysone rất thích đá bóng, vui tính và chan hoà, được các bạn Việt Nam quý mến và tin cậy. Những ngày gần Cách Mạng tháng 8/1945, bỗng một hôm, Kaysone hỏi vay tiền chị Hương tôi. Lúc đó chị tôi đã đi làm nên cũng có chút ít tiền. Hơi ngạc nhiên, vì từ trước, điều đó chưa bao giờ xảy ra, song chị tôi vẫn cho Kaysone mượn, không hỏi lý do. Chị cũng không cho tôi hay số tiền là bao nhiêu. Sau này chúng tôi được biết là số tiền đó được thêm vào tiền Kaysone đã sử dụng để mua súng, chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa.
Mãi đến những năm 1980, tham gia phái đoàn cấp cao của mặt trận Tổ Quốc Việt Nam sang thăm hữu nghị nước bạn Lào, tôi mới hân hạnh được gặp lại Kaysone, lúc đó đã là Tổng bí thư của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào từ nhiều năm. Ông đã khác xưa nhiều: già đi, đạo mạo, từ tốn, nhưng lịch thiệp, giữ đúng tính cách của một chính khách ở cương vị lãnh đạo cao nhất của nước chủ nhà. Chủ và khách (đoàn Việt Nam gồm ông Huỳnh Tấn Phát chủ tịch UBTƯ MTTQVN, các ông Nguyễn Xiển và Nghiêm Xuân Yêm - phó chủ tịch Mặt trận, và tôi ủy viên Mặt Trận) trao đổi ý kiến về tình hình hai nước trong bối cảnh chính trị, kinh tế, xã hội của thế giới, quan tâm tới vấn đề của các bộ tộc Lào. Đối thoại bằng tiếng Lào và Việt (có phiên dịch), theo đúng thủ tục ngoại giao, song trong chuyện trò ngoài lề thì sử dụng tiếng Việt vì Kaysone nói tiếng Việt rất giỏi. Trong suốt quá trình tiếp xúc, ông đã không nhận ra tôi, cũng như tôi không thể nhận ra ông nếu không được giới thiệu trước đó là Kaysone. Tôi cảm thấy có một khoảng cách khá rõ giữa Kaysone Phomvihane nay ở cương vị Tổng bí thư của Đảng Nhân Dân cách mạng Lào và chàng thanh niên Kaysone hăng hái vui tính nghịch ngợm một thời là học sinh trường Bưởi, nơi đã ươm trồng đào tạo nhiều thế hệ cán bộ cách mạng cho hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của nhân dân ta. Mong rằng đó chỉ là bề ngoài.
2 - Sinh hoạt ở nhà cậu mợ
________________________
Nhà số 84 Thể Dục là một ngôi nhà hai tầng. Tầng dưới có hai phòng lớn: phòng khách và phòng ăn, một phòng nhỏ ở cạnh dùng để chuẩn bị cỗ bàn. Đó cũng là nơi mợ Rư thường ngày tiếp các bà bạn đến chơi, không muốn vào phòng khách quá trịnh trọng. Một ngõ nhỏ lát gạch từ cổng vào dẫn tới nhà để xe kéo và xe đạp, cũng là nơi ở của anh xe và anh nhỏ phục vụ cậu tham. Ngõ ngăn cách nhà cậu mợ với nhà hàng xóm ở góc phố.
Trong phòng khách, sau cửa ra vào nhìn ra đường, kê một bộ bát bảo xòe ra như một cánh quạt to, trên một giá gỗ đen. Trong bộ bát bảo đó, tôi chỉ nhớ có hai thứ ở hai rìa: một thanh gươm dài và bên kia là một biểu trưng của cây bút lông. Còn có bộ bàn ghế, hình như bằng gỗ mun khảm xà cừ, để tiếp khách. Tôi không mấy quan tâm vì không thích cách trang trí nội thất kiểu xưa như thế. Phòng ăn kê một bộ bàn ghế đủ cho 12 người ngồi ăn và một tủ chè.
Ra khỏi phòng nhỏ cạnh phòng ăn, đi xuống bếp, vừa đủ rộng để đun nấu và tối làm nơi ngủ của chị sen, nhà tắm, nhà vệ sinh, nơi giặt giũ tiếp nối và khép kín khu công trình phụ.
Một cầu thang giữa phòng khách và phòng ăn dẫn lên gác. Rẽ phải là phòng toilette dành cho cậu mợ, rồi đến phòng ngủ của cậu mợ nhìn ra đường. Trong phòng kê một chiếc giường Hồng Kông gọng đồng, một tủ sách và một sập gụ. Trên sập đặt một bàn đèn thuốc phiện. Nghe nói, sau khi tốt nghiệp tú tài ở Pháp về được ít lâu, cậu bị một trận ốm nặng, đau bụng đau bão dữ dội gì đó, phải cho hút thuốc phiện mới khỏi. Khỏi rồi, cậu nghiện luôn á phiện. Vả lại thời bấy giờ, một số các ông quan, ông nghị gặp nhau nói chuyện bên bàn đèn thuốc phiện cũng là thường tình, mang cái mác của những người quyền quý, giàu sang. Cậu Rư tôi, tuy không có những cuộc đàm đạo như thế, nhưng hàng ngày hút vài ba điếu, tự tiêm lấy, sái bỏ đi, trước khi đi làm và đi ngủ, cảm thấy dễ chịu, “chẳng chết ai”, mợ không có ý kiến gì, nên chẳng hề nghĩ đến cai thuốc.
Bên trái cầu thang đi lên là phòng của trẻ con. Trừ mấy đứa bé nhất có u già chăm và mợ bế, còn những đứa tuổi đi học, ăn cơm xong là túa lên phòng đó, cũng rộng bằng buồng cậu mợ. Chúng đùa chán một lúc, tung chăn tung gối ném nhau rồi tối xuống buồng ăn có gia sư đến kèm cặp cho học, chủ yếu là ôn bài và giải thích giúp làm những bài tập khó.
Ra khỏi phòng trẻ là một sân thượng, trên trần phòng con dưới nhà, làm nơi phơi quần áo. Rồi đến hai phòng nhỏ, diện tích mỗi gian khoảng 10m2, ở suốt mặt trên của các công trình phụ ở dưới nhà. Một gian có cửa ra vào, và một cửa sổ nhìn ra ban công, chỉ vừa lối đi cho một người. Phòng đầu làm kho chứa gạo, phòng bên là nơi tôi ở có cửa thông sang buồng kho. Cửa ra vào ban-công của kho luôn luôn đóng nên hàng ngày lên lấy gạo nấu cơm, chị sen phải đi qua phòng tôi. Buồng của tôi có một bàn học kê gần cửa sổ, hai giường cá nhân cho tôi và một cháu gái bất kỳ của cậu tham, đến chơi vài ngày hay từ Thái Bình lên Hà Nội học một thời gian. Đầu tiên là cô Nhàn, con bà Hai Quảng (chị của cậu), lên học may cho tới khi đi lấy chồng ở phố Huế, hiền lành, chịu khó, đã mất tích trong quá trình vượt biên di tản sau năm 1975. Sau đến cô Lợi, con gái ông bà Cử Cẩn (một chị khác của cậu), cũng rất ngoan, chị ở cùng tôi, đi học gì đó tôi không nhớ một thời gian ngắn. Lợi là người con duy nhất của dì Cử Cẩn ở lại miền Bắc gắn bó với quê hương, nền nã giữ gìn cơ ngơi của bố mẹ tại quê của chú Cử Cẩn. Họ hàng Việt Kiều nước ngoài về thăm Thái Bình, ai muốn tìm mộ chí của tổ tiên có thể tìm đến Lợi. Cuối cùng là em Tâm tôi, về học trường Đồng Khánh. Sống với tôi ba năm cho tới tháng 3-1943, em thôi học trở sang Lào. Quần áo, sách vở đồ đạc ít ỏi của chúng tôi, để trong va-ly và một cái tủ bằng gỗ tạp kê ở đầu giường. Những thứ dùng hàng ngày treo trên mắc áo.
Từ phòng tôi nhìn qua ban-công sang phía phố Bà Triệu, thấy ngay phòng trên gác của hai cô Phùn và cô Lêt, hai nữ sinh trường đầm Félix Faure [1]. Không biết tên Việt của hai cô là gì, Phùn và Lêt chỉ là phiên âm của tên gọi tiếng Pháp bị đọc trẹo đi. Các cô đã ở đó từ trước khi tôi đến, và dân xung quanh quen gọi các cô như thế. Hai cô đều lớn hơn tôi, dáng vẻ kênh kiệu, đi học có xe riêng đưa đón. Sáng dậy các cô trang điểm một hồi lâu, đánh phấn, tô môi son, kẻ lại lông mày, quần áo đủ kiểu, thay đổi hàng ngày, chải chuốt xong mới xuống đi học. Tối trước khi ngủ, các cô mặc áo khoác (robe de chambre), vặn đĩa hát nghe nhạc rồi mới lên giường đi ngủ. Hình như hai cô là con của một gia đình giàu có ở Hải Phòng lên đây thuê nhà để đi học, sống riêng biệt ít tiếp xúc với hàng xóm. Ở cạnh nhà nhau nhiều năm, nhưng chúng tôi không có quan hệ. Cả hai phía đều không có nhu cầu. Mỗi bên có kiểu sinh hoạt riêng.
Ở nhà cậu mợ tôi, sáng dậy u già mua quà sáng cho cả nhóm học sinh mỗi người một gói xôi lúa cuộn trong một mảnh lá sen, giá chỉ khoảng hai ba xu (bằng 2000 - 3000đ bây giờ), bánh cuốn hay ngô luộc. Ăn xong, các em con cậu tôi được dồn lên xe tay, anh xe kéo một mạch, con trai đến trường Puginier, nay là trụ sở trường Việt Đức ở phố Lý Thường Kiệt, con gái đến trường Sainte Marie, nay là bệnh viện Việt Nam - Cuba ở phố Hai bà Trưng. Xong anh xe lại quay về đón cậu tham đi làm ở phủ thống sứ, nay là nhà khách chính phủ, trước khách sạn Sofitel.
Khoảng 11 giờ rưỡi, trẻ con tan học, cậu tham cũng đi làm về tới nhà vào 12 giờ. Đúng giữa trưa, cả nhà tập trung ở phòng ăn. Một chỗ riêng cố định dành cho ông chủ gia đình ở đầu bàn. Mợ tham và các con cháu ngồi hai bên. Thức ăn đã được chị sen dọn sẵn. Bao giờ cậu tôi cũng khởi đầu bằng một bát súp, rồi món khoai tây nghiền hấp trứng (purée), món riêng cho cậu, sau đó mới ăn cơm. Cơm trưa của gia đình thường có riêu cá, cá trắm kho riềng hoặc thịt bò kho gừng, đậu phụ rán, rau muống luộc, thay đổi tuỳ ngày, song bữa nào cũng có dưa và hành muối. Đông con nhiều cháu thịt, cá, trứng hẳn không đủ cho tất cả. Trong khi ăn, không ai được nói chuyện, trừ khi cậu mợ hỏi gì thì trả lời ngắn gọn. Người nào ăn hết bát cơm, khẽ gõ đũa vào miệng bát, anh nhỏ đứng sẵn, gần nồi cơm, đưa một chiếc đĩa nhỏ bằng đồng đón lấy bát, xới đầy cơm và đưa lại cho người ăn. Bữa ăn nào cũng giống bữa nấy, khoảng nửa tiếng là xong. Cậu tôi cùng mợ lên phòng nghỉ trưa. Bọn trẻ con được u già đưa lên gác, như chim sổ lồng túa cả về phòng của mình, tranh thủ nghịch ngợm thay vì đi ngủ. Tôi lên buồng, chỉ ngả lưng một lúc, rồi dậy ôn lại bài buổi chiều. Các bạn tôi bảo tôi là “gạo cụ”. Ngoài sách giáo khoa tôi còn tìm đọc thêm một số sách có liên quan, kể cả các môn sử và địa. Chỉ là thích đọc và đã trở thành thói quen. Lớp học chiều bắt đầu từ 2 giờ. Tôi đi học từ 1 giờ rưỡi trưa. Qua giữa phố Bà Triệu, tôi gọi bạn Vân Linh cùng đi. Linh vào học trường Lycée từ năm seconde (lớp 2) và sẽ là người bạn đồng hành cùng tôi trong những năm còn lại ở trường Lycée cho tới khi học hết tú tài phần thứ 2 (Baccalauréat 2eme partie) vào năm 1944.
Trong những năm tháng sống ở nhà cậu mợ, tôi đã chuyển từ môi trường đang sống cởi mở dân chủ ở nhà bố mẹ sang một nền nếp sinh hoạt, kỷ luật phong kiến trong gia đình khi cậu tôi còn sống. Tôi đã thích nghi được, không mấy khó khăn, có lẽ cũng nhờ say mê học tập, thích đọc sách, ít quan tâm đến chuyện phù phiếm - thích nghi và điều chỉnh trên cơ sở độc lập suy nghĩ và hành động theo hướng phù hợp với đặc tính của bản thân và môi trường, để tồn tại và phát triển.
(còn tiếp)
_____
Chú giải của N.Đ.Đ.:
[1] Félix François Faure (1841 - 1899) là tổng thống Pháp từ năm 1895 tới khi qua đời. Tòa nhà của Lycée Félix Faure ngày nay là trụ sở của Bộ tư Pháp, 60 phố Trần Phú, Hà Nội.
Ảnh minh hoạ do N.Đ.Đ. tải xuống từ flickr.
----------------
Hồi ký của bác sỹ Vũ Thị Chín
*******************************
Những trang dưới đây là ký ức - một sự nhớ lại những kỷ niệm về các cảnh vật đã hiện diện, những con người đã chung sống và gặp gỡ cùng biết bao sự kiện đã từng xảy ra trên những chặng đường đã qua.
Gọi là tùy bút vì được viết tùy thích, tùy hứng, bất kể lúc nào, theo dòng chảy của hồi ức. Những kỷ niệm hình ảnh, sự kiện nối tiếp nhau xuất hiện như con tằm rút ruột nhả tơ, rồi bỗng nhiên chựng lại. Cũng không được bao lâu, sau một thời gian ngắn, có khi qua vài đêm thao thức, một khoảnh khắc của quá khứ xa xưa tưởng như đã bị quên lãng đó lại tái hiện rõ mồn một.
Thế mới hiểu tại sao, vào những năm cuối đời, nhiều người hay viết hồi ký. Có lẽ đó là một nhu cầu. Một số người viết với mục đích để con cháu biết những điều trước đây chưa có dịp, chưa thể nói được. Một số khác, trong đó có tôi, viết để tìm lại chính mình, một kiểu tự sự. Có người không viết mà kể cho một người khác nghe, tâm sự với người đó. Người nghe, cấu trúc biên tập lại. Câu chuyện sẽ có thể mang chất văn học hơn, nhưng một phần giá trị chân thực sẽ bị giảm bớt do có sự đan xen cảm nhận của người được nghe đương sự kể. Tính chân thực sẽ được bộc lộ trên những trang viết tự nhiên bình dị, không tỉa tót, của người tự viết câu chuyện về cuộc đời của chính mình.
Không ai thấu hiểu mình bằng chính bản thân mình. Cuộc đời của mỗi người là của riêng người đó, không giống với của bất cứ ai.
Thu đông Kỷ Sửu 2009 -
Xuân Canh Dần 2010
Vũ Thị Chín

-----------------
NHỚ LẠI
Hồi ký của bác sỹ Vũ Thị Chín (*)
(trích I)
(*) Bác sỹ Vũ Thị Chín sinh năm 1924, tốt nghiệp bác sỹ năm 1952 tại Đại học Y khoa Hà Nội, tốt nghiệp chuyên khoa nhi năm 1954 tại Đại học Y khoa Paris, hiện sống tại Hà nội.
*****************************************************************

Lời giới thiệu
___________
Sau khi cha tôi qua đời tháng 9/2009, vào dịp Thu Đông Kỷ Sửu 2009 và Xuân Canh Dần 2010, mẹ tôi đã viết phần I hồi ký của mẹ có tên "Nhớ lại", mà mẹ gọi là tùy bút. Mẹ đã trao cho tôi bản photocopy bản thảo hồi ký đó để tôi soát lỗi, kèm lời dặn không cho ai khác xem để tránh thắc mắc những đoạn trong hồi ký liên quan đến họ hàng và những người khác còn sống. Sau khi đi Nhật về vào tháng 5/2010, ở tuổi 86, mẹ tôi đã tự học sử dụng PC và internet, và đã viết tiếp phần 2 của hồi ký này bằng MS Word.
Vừa qua, tức 13 năm sau khi tôi nhận được bản thảo, Thùy Mai đã ngồi gõ lại toàn bộ phần I hồi ký của mẹ chồng thành Word file. Thùy Mai làm việc này một cách say sưa hàng ngày, liên tục trong liền 2 tuần lễ mới đánh xong. Thùy Mai nói vừa gõ chữ vừa đọc, thấy như sống thêm một cuộc đời khác - cuộc đời của mẹ chồng, cũng là một trong những người cuối cùng hiện còn sống của thế hệ vàng trí thức Việt giữa thế kỷ trước.
Trong hồi ký của mẹ, xen giữa những câu chuyện rất cảm động về tình yêu gia đình, hiện lên bức tranh đa sắc, đặc biệt là về nền giáo dục tại Hà Nội thời Pháp những năm 1940 - 1950 và tại Paris đầu thập niên 1950.
Nhận thấy những thông tin này có giá trị lịch sử, tôi đã xin phép mẹ cho công bố một số đoạn do tôi tự chọn, và đã được mẹ đồng ý.
Dưới đây và trong những post tiếp theo tôi sẽ lần lượt đăng một số trích đoạn như vậy.
N.Đ.Đ.
Lưu ý:
______
Độc giả có thể share nguyên văn trang này, dùng nút share của FaceBook, chứ không copy hay cắt dán vào FB của mình.
Tác giả giữ bản quyền: Không được đăng lại (toàn bộ cũng như trích đoạn) mà không có sự ưng thuận bằng văn bản của tác giả.
*
ĐẶT TÊN
Tôi sinh ra vào 9 giờ tối ngày 9 tháng 9 năm Khải Định thứ 9 (Lúc đó còn tục lệ dùng niên hiệu của vua) [1].
Đặt tên con, bố tôi có sẵn một bộ tên. Con trai giữ đệm Xuân của bố (Tên bố tôi là: Vũ Xuân Cuông). Con gái, bố chọn tên trong các loại chim hoặc các loài hoa. Hai chị lớn của tôi: Thúy và Uyên. Sinh chị thứ ba, bố đặt tên là Hương (gợi hương thơm của hoa). Đón đứa con thứ tư là tôi, bố tưởng được một thằng cu con, nên đã chuẩn bị chữ đệm Xuân, chỉ cần ghép thêm một tên con trai (Nguyên, Tú hoặc Quang…), nào ngờ lại thêm một con vịt giời nữa. Song rất thương con và thấy nó cũng khá cứng cáp, tròn trịa, nuột nà như giò phong lan hàng ngày bố thường chăm chút (ấy là khi tôi sắp đầy tháng) nên bố tôi thêm tên Lan vào chữ đệm đã có sẵn thành Xuân Lan. Tôi sinh ra vào mùa thu, đâu có phải vào mùa xuân! Rồi để dễ nhớ ngày sinh của tôi, toàn rơi vào con số 9, bố ghi thêm vào giấy khai sinh: Vũ Xuân Lan tức Vũ Thị Chín, coi tên chính của tôi là Xuân Lan, và tên Chín chỉ là ghi chú.
Cho đến 13 tuổi, ở nhà, đến trường, mọi người đều gọi tôi là Lan. Khi đang học năm thứ nhất trường trung học Pavie (Collège Pavie ở Vientiane - Lào) [2], là học sinh giỏi nhất về Pháp văn, tôi được nhà trường cấp học bổng gửi về Hà Nội học trường Lycée Albert Sarraut. Kiểm tra trình độ, tôi được nhận vào lớp năm (cinquième) của trường Lycée.
Vào trường Tây, tên Xuân Lan khó phát âm hơn tên Chín đối với người nước ngoài, thầy cô giáo liền bỏ rơi luôn tên Xuân Lan và gọi tên tôi là Chín cho dễ. Từ đó đến nay, danh xưng của tôi trở thành Vũ Thị Chín. Chỉ những người thân trong gia đình và những người quen biết từ bé, mới vẫn tiếp tục gọi tôi bằng cái tên Lan thân thương mà tôi rất yêu mến vì nó gắn bó với cả thời thơ ấu đầy ắp những kỷ niệm khó quên.
Với cái tên Chín, tôi như khoác một chiếc áo mới, nghiêm trang, để ra ngoài xã hội, bước vào một thế giới khác hẳn với môi trường thiên nhiên có những con người chân chất, mộc mạc, những vật thể hầu như còn nguyên sơ mà tôi hằng được sống cùng, thời trước 13 tuổi.
Việc đổi tên đã đánh dấu bước ngoặt đó.
(...)
TRƯỜNG LYCÉE ALBERT SARRAUT
Từ Lào về học trường trung học Lycée mang tên của toàn quyền Albert Sarraut khi năm học đã bắt đầu, tôi phải gấp rút vượt qua cửa ải kiểm tra học lực để được nhận vào lớp năm (cinquième).
Sau năm năm tiểu học (từ onzième - lớp 11, đến hết septième - lớp 7), hệ trung học bắt đầu từ lớp sáu (sixième) và kết thúc sau khi đạt bằng tú tài năm thứ nhất (Baccalauréat première partie). Ở năm thứ hai tú tài, có sự phân ban: ban triết học (Philosophie) và ban khoa học (Sciences), lúc đầu chỉ mới có ban toán (Mathématiques), đến khoá của tôi (1943-1944) mở thêm ban triết - khoa học (Philo-Sciences). Sự phân ban này nhằm định hướng học sinh chuẩn bị bước vào đại học.
Thi vào cinquième, tất cả các môn tôi không ngại, trừ Anh văn. Học sinh ở đây, từ sixième (lớp 6) đều đã qua một năm học Anh văn, mỗi tuần hai tiết, còn tôi hoàn toàn mù tịt vì chưa hề được học. Tìm được cuốn sinh ngữ Anh văn (Anglais vivant), tôi tập trung vào việc tự học là chủ yếu, theo kiểu học vỡ lòng Pháp văn, chỗ nào vướng mắc thì hỏi Xiển, em họ tôi lúc đó đang học tú tài trường Bưởi, và trọ học ở nhà cậu tôi. Tôi hồi hộp đứng trước bà Boyer - dạy Anh văn lớp năm có tiếng là “hắc” so với cô Wilkin dạy lớp sáu - lo do thiếu tự tin vào thực lực, mới cày cuốc hơn nửa tháng. Cuộc kiểm tra mở đầu bằng hỏi và trả lời, không đến nỗi “hắc búa”, chỉ là: “Tên là gì? - Bao nhiêu tuổi? - Ngày tháng năm sinh? - Bố mẹ làm gì? - Có bao nhiêu anh chị em? - Sở thích những gì?” Trả lời không bị vấp váp vì đã có sự chuẩn bị sẵn, tôi hơi vững tâm khi bà Boyer gật đầu nói: “Good.” Bước tiếp theo lại chẳng được OK cho: Bà Boyer đưa tôi đọc một đoạn bài (text) trong một cuốn sách. Sau này tôi mới biết đó là một quyển truyện học sinh lớp năm đang đọc. Tôi tưởng đọc được trôi chảy, nhưng bà Boyer lắc đầu lia lịa, nhăn mặt, chặn tôi lại, và thốt lên bằng tiếng Pháp: “Chúa ơi! Đọc tiếng Anh mà ngữ điệu và phát âm như tiếng Pháp thì không ổn đâu con ạ”. Bà cứ lặp đi lặp lại: “Không ổn đâu, con ạ!” (Ça ne va pas, ma petite.) “Người Anh nghe con sẽ không hiểu con nói thứ charabia gì.” (charabia: tiếng khó hiểu). Rồi bà nhún vai: “Enfin.” (Thôi vậy). Tôi băn khoăn không biết liệu “Thôi vậy của bà ngụ ý gì? Bà có cho qua không?” Và tôi rất mừng khi nhà trường cho biết tôi đã được chấp nhận vào lớp năm với kết quả khả quan. Có lẽ điểm của các môn khác đã gánh đỡ cho điểm Anh văn, hẳn không phải là con số đẹp.
Tôi đã đứng trong hàng ngũ những bạn cùng lớp.
Sau này, bạn Tuấn Lan (Phạm Thị Tuấn), Việt Kiều Pháp, gặp lại sau 50 năm, có lần nói với tôi: “Hồi đó bọn tôi cũng ngạc nhiên. Vào trường Sarraut không dễ. Ngoài học sinh Pháp, học sinh Việt Nam một là phải con nhà quyền quý, con quan hay công chức cao cấp, hai là phải học từ onzième (lớp 11). Nếu đến sixième (lớp 6) mới xin vào, ngoài điều kiện thứ nhất, còn phải thi, không ít người trượt.” Từ seconde (lớp 2), phần nhiều sau khi đỗ Brevet Elémentaire ở trường Félix Faure chuyển sang, như Nguyễn Thị Nhị, Nguyễn Thị Tính, hai chị em Raymonde Gilles v.v. Sau diplome và tú tài phần thứ nhất, do các trường khác, chủ yếu là trường Bưởi, chưa có phân ban triết, nên một số học sinh trường này đã thi vào, như Nguyễn Đình Thi [3], ban triết học (Philosophie), chỉ ít lâu sau khi được chuyển sang đã nổi tiếng về học lực. Trong khi đó, ở ban toán học (Mathématiques), Dương Trọng Bái [4] là học sinh xuất sắc. Bái học cùng tôi từ cinquème đến seconde, nhảy một lớp (tú tài phần thứ nhất) để khỏi hàng năm phải tranh giải thưởng xuất sắc (Prix d’Excellence) với tôi khi tổng kết niên học. Đó là theo lời anh nói với tôi sau này chứ hồi đó tôi đã kính nể anh, chẳng những đã học nhảy hơn tôi một lớp, vào một phân ban khó “nhằn” nhưng vẫn nổi trội. Những điều đó, chúng tôi đều để bụng thời học sinh, thời thi đua hay ganh đua “ngựa non háu đá”, đến tuổi thành ông thành bà, khi gặp lại, không ngần ngại kể ra tông tốc, thấy thời đó sao mà hồn nhiên và trẻ con đến thế.

Cùng trang lứa với tôi những bạn học khác - nhóm Classiques (Cổ Điển), học thêm tiếng Latin (nhóm A) và Hy Lạp (nhóm A*), thay vì cho Anh văn của nhóm B, có thể ngang lớp hoặc trên dưới một lớp, tôi không nhớ rõ, có Phạm Thị Nhu, Trần Thị Ân - sau này là một trong nữ giáo sư đầu tiên của Việt Nam, đại biểu quốc hội nhiều khóa, Trần Lệ Xuân - con gái của luật sư Trần Văn Chương - sau này kết hôn với Ngô Đình Nhu, “ngài cố vấn” của Ngô Đình Diệm. Hồi còn là học sinh trường Lycée, Trần Lệ Xuân là học sinh cá biệt, đã từng xé vở ngay trước mặt thầy giáo, do khi trả bài nhận phải điểm kém. Bị đuổi ra khỏi lớp, Lệ Xuân tỉnh bơ, thong dong đi chơi ngoài sân trường. Cuối năm, tổng kết học kỳ, hiệu trưởng Loubet triệu tập học sinh “điển hình” để huấn thị, Lệ Xuân thường phải đứng trong hàng ngũ học sinh bị khiển trách (blame).
Lệ Xuân có một chị là Trần Lệ Chi, học trên Lệ Xuân mấy lớp, khác hẳn cô em ngỗ ngược, từ bề ngoài nhẹ nhàng, thon thả, đến tác phong đi đứng, ngồi trên xe nhà đưa hai cô đi học. Trần Lệ Chi cùng với một số nữ sinh khác, nổi tiếng một thời, đã được chúng tôi gọi với biệt danh “Les Grandes” (Các chị lớn): Nguyễn Thị Hậu, hoa khôi được nhiều chàng trai theo đuổi; Đặng Mộng Lộc, sau này là giám đốc cửa hàng dược to nhất ở Hà Nội tạm chiếm, ngay ở trước nhà Godard (Gô-đa), đầu phố Hàng Khay, cạnh hồ Hoàn Kiếm; Nguyễn Thị Tuyết Mai, trưởng nữ của bác sĩ Nguyễn Văn Luyện, thỉnh thoảng được cha đưa đến bằng ô-tô mui trần, còn thường ngày đi học bằng xe tay nhà, bóng loáng. Chị Mai có mái tóc tết thành bím quấn quanh đầu, hay mặc áo dài xanh màu lá mạ, kênh kiệu và kiêu hãnh. Sau này tôi mới biết chị là đối tượng của mối tình đầu dai dẳng đơn phương của anh Nam, chồng tôi. Những đặc điểm của chị tôi nhớ khớp với những nét đã được diễn tả trong những vần thơ anh Nam đã đề tặng chị vào những năm 1940:
“Những buổi em đi học Lít-xê
(...)
Ngồi xe nhà trắng tuổi đôi mươi,
Là lúc tóc em đã vấn rồi,
Tóc vấn quanh đầu hay mũ miện
Của nàng công chúa thuở xa xôi.”
(Trích tập thơ "Tình và hận của tôi", 1995, của Nguyễn Đình Nam)
Nói chung , bọn chúng tôi thuộc lớp hậu sinh, luôn “kính nhi viễn chi” các chị lớn (Les Grandes), do chênh lệch tuổi tác và lớp lang, song chủ yếu là do kiểu cách, dáng vẻ đài các, con nhà trâm anh của hầu hết các chị đó.
Lớp tôi chỉ có Lê Thị Tý, có phong thái các “chị lớn”. Tý là con gái cưng xinh đẹp của ông Đốc kiểm học Lê Quang Hồng, nhà ở gần trường Lycée. Khác với bạn Alice Khuê, nhà cũng ở Quán Thánh nhưng đi bộ đến trường, Tý hàng ngày đi học bằng xe tay nhà, luôn có ông nội chống ba-toong đi cạnh, canh chừng không để chàng trai nào bám theo. Chân thường đi hài thêu cườm, Tý khoan thai từ xe bước xuống, qua cổng vào lớp, miệng tươi tắn, nở nụ cười chào các bạn. Bọn con gái chúng tôi thường hay nhạo Tý về cái vẻ kênh kiệu hơi cứng nhắc đó của bạn, song cũng tự hào về sắc đẹp của Tý, nhất là khi nhóm nữ sinh trường Félix Faure chuyển sang. Đó là lúc xem ai là hoa hậu, ai là á hậu một và hai. Có lẽ phần này ở trong tầm ngắm của học sinh con trai hơn là của con gái chúng tôi. Nói vậy cho vui thôi chứ mọi người đối xử với nhau trọng thị, nghiêm túc và lịch sự.
Vào lớp rồi, mọi cái “mác” bề ngoài, được dẹp một bên, chỉ còn ai học giỏi, ai học kém, ai là trò ngoan, ai hư. Ông Milhaud, có lúc thay bà Boyer dạy Anh văn, hãn hữu bắt gặp Tý nói chuyện trong lớp, gõ thước xuống bàn, cất giọng Marseille (một thành phố miền Nam nước Pháp bên bờ Địa Trung Hải) gọi Tý: “Lê-Ti-Ti! Lê-Ti-Ti [5]. Ta sẽ xuống ngay, uốn xoăn tóc của con” (Lê-Ti-Ti! Lê-Ti-Ti! Je vais descendre te frier), biết rằng Tý rất chăm mái tóc dài óng mượt.
Khác với Lê Thị Tý, Phạm Thị Tuấn không xinh bằng, cũng không chú ý trau truốt bề ngoài, nhưng nhanh nhẹn, thông minh, linh hoạt, phản ứng nhanh nhạy, có thằng Tây con nào trêu tức là thẳng tay đánh cho mấy cái vào lưng, bất kể ở trường hoặc đang đạp xe trên đường đi học về, đánh được xong, rụt cổ cười hí hí. Bạn còn có đặc điểm đi học hay trễ giờ. Đến muộn, cô ta rà sát tường rồi khe khẽ vào lớp, giải thích do ngủ quên, tỉnh dậy đạp xe hộc tốc đến trường rách cả gấu quần cũng vẫn không kịp. Nhớ đến Tuấn là nhớ đến cả những cái kẹp vẫn còn cặp nguyên ở gấu quần khi vào lớp.
(...)
Trong số các cô bạn lai, người thân nhất với tôi là Hortense Vouillon, con gái của cụ Vouillon, cụ già lai ươm trồng hoa có tiếng ở Ngọc Hà, học sinh trường Sarraut và trường Bưởi đều biết. Cụ có một vườn nhiều loại hoa quý được cụ vun trồng rất đẹp. Hai cô con gái của cụ đều đẹp như hoa. Chị Simone, tươi tắn, đậm đà, một thời là vợ ông Thẩm Hoàng Tín[6], nguyên thị trưởng Hà Nội. Hortense đẹp như một đóa hoa Hortensia (cẩm tú cầu) nhìn không chán mắt. Dáng người cao cao, thẳng và thon thả, mắt xanh ve, tóc hung hung, cắt ngắn, da ngăm ngăm bánh mật, má hồng, môi đỏ có độ dày mỏng vừa đủ để vành môi rõ nét, vừa nghiêm nghị vừa tươi tắn, sẵn sàng nở nụ cười đôn hậu, để lộ hai hàm răng trắng muốt, đều tăm tắp như những hạt bắp. Khi Hortense ngậm miệng, mím môi nghiêm trang nhìn thẳng, khuôn mặt của bạn, với sống mũi thanh thanh, dọc dừa, chẳng khác mặt tượng phụ nữ Hy Lạp, thường thấy trong các bức họa hoặc điêu khắc trong các bảo tàng và tạp chí mỹ thuật.
Hortense đã tập trung những nét đẹp nổi trội nhất của các cặp lai, ở đây của người bố lai Việt và của người mẹ Pháp. Tôi không được biết mẹ của Hortense, vì bà đã mất từ sớm. Hortense còn có những nét thùy mị và cái duyên kín đáo của người con gái Á Đông xưa, giản dị khiêm nhường.
Gặp lại sau 50 năm, khi Hortense trở lại cùng chồng Julien, một người cũng khá gắn bó với Việt Nam, bạn vẫn giữ nguyên được những nét xưa tuy đã hai thứ tóc trên đầu. Bạn thiết tha tìm gặp những bạn cũ, những người bạn trường Đại học Mỹ thuật, cùng di chuyển lên Sơn Tây sau Cách mạng tháng Tám. Hortense vô cùng sung sướng được tái kiến hai hoạ sỹ Mai Văn Hiến và Phan Kế An cùng khóa ở Sơn Tây cho tới ngày toàn quốc Kháng Chiến 19/12/1946.
Từ năm seconde trở đi, người bạn thân nhất, luôn ngồi cạnh tôi, là Nguyễn Vân Linh, con gái ông Bố Đào (Bố chánh hay Án sát ở một tỉnh nào đó tôi không quan tâm hỏi Linh). Sau này Linh trở thành vợ Đặng Vũ Trứ, con trai của bác sỹ Đặng Vũ Lạc[7]. Ông Bố Đào đông con, một số đi học, cùng ở một ngôi nhà giữa phố Bà Triệu. Hàng ngày đi học qua, tôi gọi Linh cùng đạp xe đến trường. Vào lớp hay ngủ gật, lo nhất bị mụ Boyer nhìn thấy, Linh dặn tôi cấu thật mạnh vào tay cho tỉnh ngủ. Bạn cũng ít chịu học bài, khi kiểm tra sử hay địa lý, cứ huých khuỷu tay tôi hỏi những địa danh bạn không nhớ. Bạn rất ủng hộ tôi và phần nào thiếu công bằng dè bỉu những bạn con trai nào đạt điểm hoặc phần thưởng cuối năm hơn tôi. Năm seconde, khi tôi được chọn dự thi Pháp văn toàn liên bang Đông Dương, bạn đã khuyến khích tôi và khi tôi đạt đồng giải nhì (không có giải nhất), bạn đã vui mừng thật sự.
(Còn tiếp)

Chú giải:
________
[1] Tức 9/10/1924. (Chú gỉải của N.Đ.Đ.)
[2] Quê nội của mẹ tôi ở Nam Định, nhưng gia đình ông ngoại tôi sang Lào làm ăn, nơi ông ngoại tôi dạy học. Mẹ tôi sinh ra và học tiểu học ở Thakkek, trung học ở Vientiane, trước khi về Hà Nội học Lycée Albert Sarraut vào năm 14 tuổi. (Chú gỉải của N.Đ.Đ.)
[3] Nguyễn Đình Thi (1924 - 2003), nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình văn học và người sáng tác ca khúc. (Chú gỉải của N.Đ.Đ.)
[4] Dương Trọng Bái (1924 - 2011), giáo sư vật lý, hiệu trưởng Đại học Sư phạm Hà Nội, con trai giáo sư Dương Quảng Hàm. (Chú gỉải của N.Đ.Đ.)
[5] Người Pháp không phát âm chữ h (h muet hay h câm) và các dấu trong ngữ âm tiếng Việt.
[6] Thẩm Hoàng Tín (1909 - 1991), dược sỹ và chính khách, thị trưởng Hà Nội từ 2/1950 tới 8/1952 trong chính phủ Quốc gia Việt Nam, đứng đầu lả quốc trưởng Bảo Đại - chính phủ tồn tại từ năm 1948 đến 1955, thuộc Liên bang Đông Dương trong khối Liên hiệp Pháp, thủ đô là Sài Gòn. (Chú gỉải của N.Đ.Đ.)
[7] Đặng Vũ Lạc, tốt nghiệp bác sỹ y khoa năm 1927 tại Paris, mở bệnh viện tư nhân đầu tiên ở Hà Nội có tên nhà thương Đặng Vũ Lạc, nay là bệnh viện tim ở 92 Trần Hưng Đạo. BS Đặng Vũ Lạc qua đời năm 1948. (Chú gỉải của N.Đ.Đ.)
-----------------
NHỚ LẠI
Hồi ký của bác sỹ Vũ Thị Chín (*)
(trích II)
(*) Bác sỹ Vũ Thị Chín sinh năm 1924, tốt nghiệp bác sỹ năm 1952 tại Đại học Y khoa Hà Nội, tốt nghiệp chuyên khoa nhi năm 1954 tại Đại học Y khoa Paris, hiện sống tại Hà nội.
*****************************************************************
HÀ NỘI
1 - Nhà cậu mợ và Foyer Lào
_________________________
Mẹ tôi và cậu Rư là chị em cùng bố khác mẹ. Cậu là con bà kế, bà có bốn con gái và ba con trai. Cậu là con trai út. Cậu còn được gọi là cậu tham, lấy tên chức vụ để xướng danh, vì cậu làm tham tá ở phủ thống sứ.
(...) Trở về Hà Nội, gần 5 năm sau (1937 - N.Đ.Đ.), ở tuổi xấp xỉ 14, để vào trường Lycée Albert Sarraut, tôi trọ ở nhà cậu mợ tại ngôi nhà 84 phố Thể Dục (tên Pháp là rue Wielé), nay là phố Tô Hiến Thành. Những năm học Lycée tôi được học bổng. Học phí không phải trả. Về tiền ăn ở tại nhà cậu mợ, tôi không rõ có sự thoả thuận thế nào giữa bố mẹ và cậu mợ, bố mẹ không cho tôi biết, đó là chuyện của người lớn. Có lần tôi loáng thoáng nghe chị Uyên nói: “Lúc mẹ lấy bố tôi, ông ngoại có cho mẹ tôi một số ruộng, nhưng khi bố mẹ sang Lào, bố mẹ để cho dì Cử Cẩn (em mẹ tôi) cày cấy thu hoa lợi. Tới khi tôi về Hà Nội học lycée, bố mẹ tôi có đề nghị dì Cử Cẩn trích một phần hoa lợi đủ chi phí ăn ở của tôi ở nhà cậu mợ”. Và đã không hề xảy ra khuất tất gì trong vấn đề này. Cậu mợ coi tôi như con cháu trong gia đình.
Ngoài ra, trong học bổng tôi còn được nhận mỗi tháng 10 piastres (mười đồng Đông Dương) để tiêu vặt. Tôi dùng số tiền này để mua sách vở giấy bút, thỉnh thoảng chữa xe đạp bị hỏng, làm lộ phí về thăm quê nội vào các kỳ nghỉ. Vé tàu Hà Nội - Nam Định một lượt lúc đó khoảng từ 2.5 đến 3 đồng Đông Dương.

Về quần áo, mỗi kỳ nghỉ hè về thăm gia đình, bố mẹ may cho vài bộ mặc cả năm. Từ bé tôi không cầu kỳ về ăn mặc, cốt sao cho tiện. Đi học bằng xe đạp, đội nón khi ngược gió, nón hay bị lật ngửa ra phía sau dễ đứt quai, nhìn sang hai bên cũng bị hạn chế, tôi đổi sang đội một chiếc mũ cát (casque) trắng, chắc nịch, có quai quàng xuống cằm. Guốc dép không quai hậu đạp xe hay bị rơi tuột, tôi sắm một đôi giày ba ta bằng da trắng, lúc nào lấm bẩn, chỉ cần chải bằng nước xà phòng, lau sạch chóng khô ngay. Giày đó rất bền nhé.
Các bạn cho tôi là ngô nghê, không biết làm dáng, chẳng có tý gì là con gái, hệt như con trai. Đúng thôi mà. Cả một thời còn bé, tôi đã chả mặc giả con trai đó sao? Xì xào bàn tán chán, thấy tôi vẫn “hồn nhiên” như thế, các bạn rồi cũng thôi. Song “đặc điểm” đó là một kỷ niệm thời học trò mà các bạn tôi hay nhắc lại khi gặp lại nhau nhiều năm sau này để cùng cười vui.
Phố Thể Dục, nơi có nhà cậu mợ tôi ở phía Nam thành phố, vuông góc với phố Bà Triệu. Phố này được kéo dài thêm về phía dưới với một số ngôi nhà hai tầng mới xây thêm về sau. Tại một trong những nhà này, trên một căn gác rộng, có một số học sinh Lào ở để đi học một số trường Hà Nội: trường Bưởi, trường Hoài Đức. Nhóm được tổ chức thành một tổ có tên Pháp “Foyer Lao” (Hội quán người Lào). Cai quản nhóm này là một công chức Lào, làm việc ở sở Liêm Phóng. Người ta cho đó chỉ nhằm che mắt mật thám Tây vì đa số học sinh của Foyer Lao sau này đều trở thành cán bộ lãnh đạo của Cách mạng Lào, như Kaysone, sau này trở thành Tổng bí thư Kaysone Phomvihane (1920 - 1992) của Đảng cách mạng nhân dân Lào; Chau Khampheng (1923 - 2011), bạn đồng môn với tôi ở trường Pavie, về học trường Hoài Đức, người sau này tham gia ban lãnh đạo Hội Phụ nữ Lào và trở thành phu nhân của Khamphay Boupha (1917 - 2009), đại sứ Lào đầu tiên ở Việt Nam.
Chị Hương và tôi hay đến Foyer Lao, thăm các đồng môn trường Pavie, vẫn nhớ phong cách đài các của Chau Khamphan, mảnh dẻ trắng trẻo; tính tình điềm đạm, thùy mị, nói năng khẽ khàng của Chau Khampheng, da ngăm ngăm đen. Khamphan và Khampheng đều là con gái Luang Prabang, búi tóc ngược nghiêng về một bên đỉnh đầu. Đi học trường Việt, nhưng họ chỉ mặc “xịn”(váy) với giải hoa văn ở gấu, quấn sát nửa người, rất lịch sự.

Ồn ào nhất nhóm là Kaysone vui vẻ và tinh nghịch. Sau này, nhà tôi, đồng môn với Kaysone ở trường Bưởi, kể rằng Kaysone rất thích đá bóng, vui tính và chan hoà, được các bạn Việt Nam quý mến và tin cậy. Những ngày gần Cách Mạng tháng 8/1945, bỗng một hôm, Kaysone hỏi vay tiền chị Hương tôi. Lúc đó chị tôi đã đi làm nên cũng có chút ít tiền. Hơi ngạc nhiên, vì từ trước, điều đó chưa bao giờ xảy ra, song chị tôi vẫn cho Kaysone mượn, không hỏi lý do. Chị cũng không cho tôi hay số tiền là bao nhiêu. Sau này chúng tôi được biết là số tiền đó được thêm vào tiền Kaysone đã sử dụng để mua súng, chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa.
Mãi đến những năm 1980, tham gia phái đoàn cấp cao của mặt trận Tổ Quốc Việt Nam sang thăm hữu nghị nước bạn Lào, tôi mới hân hạnh được gặp lại Kaysone, lúc đó đã là Tổng bí thư của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào từ nhiều năm. Ông đã khác xưa nhiều: già đi, đạo mạo, từ tốn, nhưng lịch thiệp, giữ đúng tính cách của một chính khách ở cương vị lãnh đạo cao nhất của nước chủ nhà. Chủ và khách (đoàn Việt Nam gồm ông Huỳnh Tấn Phát chủ tịch UBTƯ MTTQVN, các ông Nguyễn Xiển và Nghiêm Xuân Yêm - phó chủ tịch Mặt trận, và tôi ủy viên Mặt Trận) trao đổi ý kiến về tình hình hai nước trong bối cảnh chính trị, kinh tế, xã hội của thế giới, quan tâm tới vấn đề của các bộ tộc Lào. Đối thoại bằng tiếng Lào và Việt (có phiên dịch), theo đúng thủ tục ngoại giao, song trong chuyện trò ngoài lề thì sử dụng tiếng Việt vì Kaysone nói tiếng Việt rất giỏi. Trong suốt quá trình tiếp xúc, ông đã không nhận ra tôi, cũng như tôi không thể nhận ra ông nếu không được giới thiệu trước đó là Kaysone. Tôi cảm thấy có một khoảng cách khá rõ giữa Kaysone Phomvihane nay ở cương vị Tổng bí thư của Đảng Nhân Dân cách mạng Lào và chàng thanh niên Kaysone hăng hái vui tính nghịch ngợm một thời là học sinh trường Bưởi, nơi đã ươm trồng đào tạo nhiều thế hệ cán bộ cách mạng cho hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của nhân dân ta. Mong rằng đó chỉ là bề ngoài.

2 - Sinh hoạt ở nhà cậu mợ
________________________
Nhà số 84 Thể Dục là một ngôi nhà hai tầng. Tầng dưới có hai phòng lớn: phòng khách và phòng ăn, một phòng nhỏ ở cạnh dùng để chuẩn bị cỗ bàn. Đó cũng là nơi mợ Rư thường ngày tiếp các bà bạn đến chơi, không muốn vào phòng khách quá trịnh trọng. Một ngõ nhỏ lát gạch từ cổng vào dẫn tới nhà để xe kéo và xe đạp, cũng là nơi ở của anh xe và anh nhỏ phục vụ cậu tham. Ngõ ngăn cách nhà cậu mợ với nhà hàng xóm ở góc phố.
Trong phòng khách, sau cửa ra vào nhìn ra đường, kê một bộ bát bảo xòe ra như một cánh quạt to, trên một giá gỗ đen. Trong bộ bát bảo đó, tôi chỉ nhớ có hai thứ ở hai rìa: một thanh gươm dài và bên kia là một biểu trưng của cây bút lông. Còn có bộ bàn ghế, hình như bằng gỗ mun khảm xà cừ, để tiếp khách. Tôi không mấy quan tâm vì không thích cách trang trí nội thất kiểu xưa như thế. Phòng ăn kê một bộ bàn ghế đủ cho 12 người ngồi ăn và một tủ chè.
Ra khỏi phòng nhỏ cạnh phòng ăn, đi xuống bếp, vừa đủ rộng để đun nấu và tối làm nơi ngủ của chị sen, nhà tắm, nhà vệ sinh, nơi giặt giũ tiếp nối và khép kín khu công trình phụ.
Một cầu thang giữa phòng khách và phòng ăn dẫn lên gác. Rẽ phải là phòng toilette dành cho cậu mợ, rồi đến phòng ngủ của cậu mợ nhìn ra đường. Trong phòng kê một chiếc giường Hồng Kông gọng đồng, một tủ sách và một sập gụ. Trên sập đặt một bàn đèn thuốc phiện. Nghe nói, sau khi tốt nghiệp tú tài ở Pháp về được ít lâu, cậu bị một trận ốm nặng, đau bụng đau bão dữ dội gì đó, phải cho hút thuốc phiện mới khỏi. Khỏi rồi, cậu nghiện luôn á phiện. Vả lại thời bấy giờ, một số các ông quan, ông nghị gặp nhau nói chuyện bên bàn đèn thuốc phiện cũng là thường tình, mang cái mác của những người quyền quý, giàu sang. Cậu Rư tôi, tuy không có những cuộc đàm đạo như thế, nhưng hàng ngày hút vài ba điếu, tự tiêm lấy, sái bỏ đi, trước khi đi làm và đi ngủ, cảm thấy dễ chịu, “chẳng chết ai”, mợ không có ý kiến gì, nên chẳng hề nghĩ đến cai thuốc.
Bên trái cầu thang đi lên là phòng của trẻ con. Trừ mấy đứa bé nhất có u già chăm và mợ bế, còn những đứa tuổi đi học, ăn cơm xong là túa lên phòng đó, cũng rộng bằng buồng cậu mợ. Chúng đùa chán một lúc, tung chăn tung gối ném nhau rồi tối xuống buồng ăn có gia sư đến kèm cặp cho học, chủ yếu là ôn bài và giải thích giúp làm những bài tập khó.
Ra khỏi phòng trẻ là một sân thượng, trên trần phòng con dưới nhà, làm nơi phơi quần áo. Rồi đến hai phòng nhỏ, diện tích mỗi gian khoảng 10m2, ở suốt mặt trên của các công trình phụ ở dưới nhà. Một gian có cửa ra vào, và một cửa sổ nhìn ra ban công, chỉ vừa lối đi cho một người. Phòng đầu làm kho chứa gạo, phòng bên là nơi tôi ở có cửa thông sang buồng kho. Cửa ra vào ban-công của kho luôn luôn đóng nên hàng ngày lên lấy gạo nấu cơm, chị sen phải đi qua phòng tôi. Buồng của tôi có một bàn học kê gần cửa sổ, hai giường cá nhân cho tôi và một cháu gái bất kỳ của cậu tham, đến chơi vài ngày hay từ Thái Bình lên Hà Nội học một thời gian. Đầu tiên là cô Nhàn, con bà Hai Quảng (chị của cậu), lên học may cho tới khi đi lấy chồng ở phố Huế, hiền lành, chịu khó, đã mất tích trong quá trình vượt biên di tản sau năm 1975. Sau đến cô Lợi, con gái ông bà Cử Cẩn (một chị khác của cậu), cũng rất ngoan, chị ở cùng tôi, đi học gì đó tôi không nhớ một thời gian ngắn. Lợi là người con duy nhất của dì Cử Cẩn ở lại miền Bắc gắn bó với quê hương, nền nã giữ gìn cơ ngơi của bố mẹ tại quê của chú Cử Cẩn. Họ hàng Việt Kiều nước ngoài về thăm Thái Bình, ai muốn tìm mộ chí của tổ tiên có thể tìm đến Lợi. Cuối cùng là em Tâm tôi, về học trường Đồng Khánh. Sống với tôi ba năm cho tới tháng 3-1943, em thôi học trở sang Lào. Quần áo, sách vở đồ đạc ít ỏi của chúng tôi, để trong va-ly và một cái tủ bằng gỗ tạp kê ở đầu giường. Những thứ dùng hàng ngày treo trên mắc áo.
Từ phòng tôi nhìn qua ban-công sang phía phố Bà Triệu, thấy ngay phòng trên gác của hai cô Phùn và cô Lêt, hai nữ sinh trường đầm Félix Faure [1]. Không biết tên Việt của hai cô là gì, Phùn và Lêt chỉ là phiên âm của tên gọi tiếng Pháp bị đọc trẹo đi. Các cô đã ở đó từ trước khi tôi đến, và dân xung quanh quen gọi các cô như thế. Hai cô đều lớn hơn tôi, dáng vẻ kênh kiệu, đi học có xe riêng đưa đón. Sáng dậy các cô trang điểm một hồi lâu, đánh phấn, tô môi son, kẻ lại lông mày, quần áo đủ kiểu, thay đổi hàng ngày, chải chuốt xong mới xuống đi học. Tối trước khi ngủ, các cô mặc áo khoác (robe de chambre), vặn đĩa hát nghe nhạc rồi mới lên giường đi ngủ. Hình như hai cô là con của một gia đình giàu có ở Hải Phòng lên đây thuê nhà để đi học, sống riêng biệt ít tiếp xúc với hàng xóm. Ở cạnh nhà nhau nhiều năm, nhưng chúng tôi không có quan hệ. Cả hai phía đều không có nhu cầu. Mỗi bên có kiểu sinh hoạt riêng.

Ở nhà cậu mợ tôi, sáng dậy u già mua quà sáng cho cả nhóm học sinh mỗi người một gói xôi lúa cuộn trong một mảnh lá sen, giá chỉ khoảng hai ba xu (bằng 2000 - 3000đ bây giờ), bánh cuốn hay ngô luộc. Ăn xong, các em con cậu tôi được dồn lên xe tay, anh xe kéo một mạch, con trai đến trường Puginier, nay là trụ sở trường Việt Đức ở phố Lý Thường Kiệt, con gái đến trường Sainte Marie, nay là bệnh viện Việt Nam - Cuba ở phố Hai bà Trưng. Xong anh xe lại quay về đón cậu tham đi làm ở phủ thống sứ, nay là nhà khách chính phủ, trước khách sạn Sofitel.
Khoảng 11 giờ rưỡi, trẻ con tan học, cậu tham cũng đi làm về tới nhà vào 12 giờ. Đúng giữa trưa, cả nhà tập trung ở phòng ăn. Một chỗ riêng cố định dành cho ông chủ gia đình ở đầu bàn. Mợ tham và các con cháu ngồi hai bên. Thức ăn đã được chị sen dọn sẵn. Bao giờ cậu tôi cũng khởi đầu bằng một bát súp, rồi món khoai tây nghiền hấp trứng (purée), món riêng cho cậu, sau đó mới ăn cơm. Cơm trưa của gia đình thường có riêu cá, cá trắm kho riềng hoặc thịt bò kho gừng, đậu phụ rán, rau muống luộc, thay đổi tuỳ ngày, song bữa nào cũng có dưa và hành muối. Đông con nhiều cháu thịt, cá, trứng hẳn không đủ cho tất cả. Trong khi ăn, không ai được nói chuyện, trừ khi cậu mợ hỏi gì thì trả lời ngắn gọn. Người nào ăn hết bát cơm, khẽ gõ đũa vào miệng bát, anh nhỏ đứng sẵn, gần nồi cơm, đưa một chiếc đĩa nhỏ bằng đồng đón lấy bát, xới đầy cơm và đưa lại cho người ăn. Bữa ăn nào cũng giống bữa nấy, khoảng nửa tiếng là xong. Cậu tôi cùng mợ lên phòng nghỉ trưa. Bọn trẻ con được u già đưa lên gác, như chim sổ lồng túa cả về phòng của mình, tranh thủ nghịch ngợm thay vì đi ngủ. Tôi lên buồng, chỉ ngả lưng một lúc, rồi dậy ôn lại bài buổi chiều. Các bạn tôi bảo tôi là “gạo cụ”. Ngoài sách giáo khoa tôi còn tìm đọc thêm một số sách có liên quan, kể cả các môn sử và địa. Chỉ là thích đọc và đã trở thành thói quen. Lớp học chiều bắt đầu từ 2 giờ. Tôi đi học từ 1 giờ rưỡi trưa. Qua giữa phố Bà Triệu, tôi gọi bạn Vân Linh cùng đi. Linh vào học trường Lycée từ năm seconde (lớp 2) và sẽ là người bạn đồng hành cùng tôi trong những năm còn lại ở trường Lycée cho tới khi học hết tú tài phần thứ 2 (Baccalauréat 2eme partie) vào năm 1944.
Trong những năm tháng sống ở nhà cậu mợ, tôi đã chuyển từ môi trường đang sống cởi mở dân chủ ở nhà bố mẹ sang một nền nếp sinh hoạt, kỷ luật phong kiến trong gia đình khi cậu tôi còn sống. Tôi đã thích nghi được, không mấy khó khăn, có lẽ cũng nhờ say mê học tập, thích đọc sách, ít quan tâm đến chuyện phù phiếm - thích nghi và điều chỉnh trên cơ sở độc lập suy nghĩ và hành động theo hướng phù hợp với đặc tính của bản thân và môi trường, để tồn tại và phát triển.
(còn tiếp)
_____
Chú giải của N.Đ.Đ.:
[1] Félix François Faure (1841 - 1899) là tổng thống Pháp từ năm 1895 tới khi qua đời. Tòa nhà của Lycée Félix Faure ngày nay là trụ sở của Bộ tư Pháp, 60 phố Trần Phú, Hà Nội.
Ảnh minh hoạ do N.Đ.Đ. tải xuống từ flickr.
----------------
Sửa lần cuối: