NHỚ LẠI
Hồi ký của bác sỹ Vũ Thị Chín (*)
(trích III)
(*) Bác sỹ Vũ Thị Chín sinh năm 1924, tốt nghiệp bác sỹ năm 1952 tại Đại học Y khoa Hà Nội, tốt nghiệp chuyên khoa nhi năm 1954 tại Đại học Y khoa Paris, hiện sống tại Hà nội.
*****************************************************************
Trận ném bom Hà Nội ngày 10 tháng 12 năm 1943 [1]
______________________________________________
Sáng thứ sáu 10/12/1943, vào quãng 11 giờ, còi ở gần sân vận động Mangin (Stade Mangin) [2] rú lên. Như thường lệ, khi có báo động, chúng tôi thu xếp sách vở đồ dùng cho vào cặp và theo thầy cô giáo, qua phố Destenay [3], ra hầm trú ẩn gần trường, cạnh câu lạc bộ thể thao [4]. Ở đó, cách đường đua của sân vận động không xa, có các tranchées (hầm trú ẩn), có chỗ được đào không sâu lắm, chỉ khoảng 80 cm. Chỉ trong chốc lát tiếng động cơ máy bay ầm ầm kéo đến. Một bạn ở gần rìa tranchées đếm được 12 chiếc. Vừa nói xong, thì một tiếng nổ xé trời kèm áp lực không khí và mùi khét lẹt đẩy dồn chúng tôi nằm rạp xuống, đè cả lên nhau. Khi yên tiếng máy bay, chúng tôi lồm cồm ngồi dậy, một lúc mới hoàn hồn thấy mình vẫn còn sống. Nhìn xung quanh thấy có ngọn lửa đang ngùn ngụt bốc cháy một vài chỗ trong thành. Nhặt cặp sách tôi trở lại garage trường lấy xe đạp cùng một vài bạn, ra khỏi trường. Đó là lần cuối, kết thúc chặng đường hơn 5 năm học trường Lycée Albert Sarraut Hà Nội.
Hai ngày sau, một trận ném bom thứ hai lại dội xuống ga Hà Nội, gây không ít thương vong. Đây là khu tập trung đông dân cư. Người dân hoảng loạn.
Cậu tôi thu xếp cho mợ và các em tạm thời về Thái Bình. Vì là công chức nên cậu tôi vẫn ở lại Hà Nội.
Trường Lycée đóng cửa. Giáo viên và học sinh được chia lẻ thành các nhóm: đi Sơn Tây, Tam Đảo, Sầm Sơn.
Riêng lớp chúng tôi, Triết - Khoa học (Philo-Sciences), phải dời lên Đà Lạt sát nhập với trường Lycée Yersin. Chỉ còn chưa đầy một năm là sẽ xong tú tài phần hai. Không ai nghĩ thay cho tôi. Chuyến tàu chở học sinh đi Đà Lạt chỉ một ngày nữa là chuyển bánh. Tôi tự quyết định theo trường đi Đà Lạt. Tôi được cậu tôi động viên, ủng hộ quyết định này.
ĐÀ LẠT
Nhóm học sinh trường Sarraut, trong đó có tôi, lên Đà Lạt bằng tàu hỏa. Chúng tôi gấp rút đóng hành lý. Va-li của tôi quá nhỏ, chỉ đủ đựng quần áo và đồ dùng cá nhân, còn sách vở mang theo tôi phải đóng vào chiếc bồ bằng cót tre mua ở chợ Hôm, buộc dây thừng thật chắc, rồi vứt lên toa tàu. Đi Đà Lạt bằng tàu hỏa là leo lên xe lửa Bắc Nam chạy từ Hà Nội tới Sài Gòn, lúc đó gọi là tàu suốt Bắc Nam, tiếng Pháp có tên xuyên Đông Dương (transindochinois) mới khánh thành chưa được 10 năm (1936).
Rời Hà Nội qua Phủ Lý, Nam Định, Ninh Bình, nhìn thấy cầu Hàm Rồng rồi đến Thanh Hoá, biết rằng từ Thanh Hoá ra Sầm Sơn không xa, tới đây một bộ phận của Lycée cũng đang tổ chức nơi ăn chốn ở cho học sinh. Trước khi đi, tôi còn thấy bà Bommart, dạy chúng tôi Pháp văn ở troisième, tất tưởi trong bộ quần áo dân dã, hô quát lũ học trò nghịch ngợm. Lại nhớ lúc bà cao giọng đanh thép đọc những câu thơ của Corneille trong Le Cid, lúc khác lại lâm ly thống thiết ngâm những vần thơ của Racine. Bà luôn trợn mắt mắng mỏ bọn chúng tôi chỉ biết đọc như vẹt, không biểu hiện nổi được những tình cảm súc tích trong những tác phẩm tuyệt tác đến thế! Song nhớ bà nhiều hơn cả là ở những lọ mứt ổi trong suốt thơm phức và ngọt lịm do chính tay bà làm, thỉnh thoảng gọi chúng tôi đến nhà bà cùng thưởng thức.
Ngủ gà ngủ gật, trong toa tàu lắc lư được kéo trên đường ray, những hình ảnh trên chập chờn trong đầu óc, tựa như trong mơ. Chúng tôi đến ga Vinh hình như vào lúc tờ mờ sáng. Qua mảnh đất khô cằn miền trung, với những người dân được mệnh danh “cá gỗ” do cuộc sống quá khắc nghiệt, ít được thiên nhiên ưu đãi, chịu những cơn gió Lào cháy da, cháy thịt, làm nóng bỏng cát bãi biển Cửa Lò, lại càng bắt nhớ đến những quả cam Xã Đoài mọng nước.
Trước khi đến Quảng Trị phải qua Tân Ấp, nơi đây từ lâu đã có dự kiến làm một đường xe lửa nối Tân Ấp với Thakhek, nhưng dự án đó từ bấy giờ đến nay vẫn chưa thành hiện thực. Hàng năm, vào kỳ nghỉ hè, về thăm gia đình ở Lào, tôi phải xuống ga Vinh rồi đi bằng ô tô qua Tân Ấp để đi tiếp sang Thakhek.
Tân Ấp, Đông Hà, Quảng Trị, rồi tới Huế, giá như được dừng ở đây để đi thăm cố đô, các lăng tẩm, sông Hương, núi Ngự - lại chuyện trong mơ, con tàu tiếp tục cuộc hành trình, chui qua đường hầm tối om để sang bên kia đèo Hải Vân, đến Tourane (Đà Nẵng) với Ngũ Hành Sơn (montagne de Marbre) cách đó không xa, và phố cổ Hội An (FaiFo), rồi Quảng Ngãi, Bình Định, để xuôi dọc các hàng dừa đến Tuy Hoà. Trên tàu chúng tôi được ăn những tấm mía của mảnh đất có nhà máy đường nổi tiếng trước khi tới Nha Trang ở mốc cây số 1215 với bãi biển đẹp có một không hai, một màu nước biển trong xanh từ trên tàu cũng nhìn thấy. Sau Nha Trang, tàu phải qua những vạt rừng, nghe nói có khá nhiều thú rừng để săn bắn. Đến Tháp Chàm (Tour Cham), tàu dừng lại tại địa điểm tiếp cận với con đường xe lửa đưa chúng tôi lên Đà Lạt. Chúng tôi rời con tàu Bắc Nam, chuyển sang tàu đi Đà Lạt. Thành phố này ở độ cao 1500 m trên cao nguyên Lang Biang, khí hậu ôn hòa, đã được người Pháp chọn với dự kiến xây dựng thành một trung tâm hành chính quan trọng. Có thể đó là lý do họ đã thiết kế một tuyến đường sắt có độ dốc lớn, nối với tuyến đường chính Bắc Nam. Người ta đã phải nhờ công ty Thụy Sỹ ở Winterthur cung cấp thiết bị đường ray răng cưa (crémaillère) mới giúp được cho các toa tầu leo nổi các dốc.
Đoạn đầu từ Tháp Chàm đến Krongpha [5], hoàn toàn bằng phẳng, tàu chạy ngon lành. Nhưng từ đó đến Đà Lạt có những khúc độ dốc tới 120mm/m. K’Beu [6] là ga đầu tiên (ở đó dốc 25mm/m) phải sử dụng ray răng cưa (dưới đây sẽ gọi là crémaillère) cho tới Bellevue (đèo Ngoạn Mục) [7]. Từ đây đến Dran [8] lại trở về mặt bằng qua một vùng trồng rau: hai bên đường tàu có những nhà dân với bát ngát những giàn su su trĩu quả. Một vài cô gái, theo sau là một bọn trẻ con, má hồng trắng mịn của người dân vùng cao, kéo nhau ra nhìn đoàn tàu chạy. Trẻ con tíu tít vẫy tay, các cô gái nở miệng cười thân thiện, để lộ hàng răng trắng đều như những hạt lựu. Một cảm giác khoan khoái, dễ chịu, xua tan mọi mệt mỏi lo lắng trong tôi.
Song con tàu lại bắt đầu chạy lừ đừ, ì ạch leo dốc, phải lắp thêm một crémaillère lớn để vượt lên độ cao 1500m, nơi có những vườn trồng loại chè nổi tiếng không kém chè Ceylan [9] thời bấy giờ. Từ đó tầu từ từ xuống dốc qua bạt ngàn những rừng thông cao vút, nghe nói rất lắm hươu nai và nhiều thú rừng khác. Từ ga Le Bosquet (Bụi cây) [10], người ta lắp một crémaillère nhỏ để tiến tới ga cuối cùng Đà Lạt, cách Tháp Chàm 84 km. Ga Đà Lạt có kiến trúc giống ga Deauville (Pháp) [11].
Ở Đà Lạt có khách sạn Liang Bang, Lycée Yersin, trường Thiếu Sinh Quân (École des Enfants de Troupes) địa điểm dành cho lớp Philo-Sciences chúng tôi.
Phân ban Philo-Sciences mới thành lập ở Lycée không đông học sinh lắm. Niên học 1943-1944, xong học kỳ 3 tháng đầu thì dời lên Đà Lạt. Theo trường lên đây chỉ có tôi và Vân Linh là học sinh Việt Nam.
Tiếng là sát nhập với Lycée Yersin, nhưng chủ yếu là cho các học sinh có nhu cầu ở nội trú được sắp xếp vào ký túc xá của Lycée Yersin, còn nơi học tập, do Lycée Yersin chưa có phân ban Philo-Scienses , nên lớp chúng tôi, từ Lycée Albert Sarraut chuyển vào, được bố trí tại địa điểm trường Thiếu Sinh Quân cũ (đã di dời đi đâu tôi không rõ). Đó là dãy nhà một tầng bằng gạch lợp ngói (cũng chỉ có mấy gian) trên một ngọn đồi xa vắng, cách trung tâm Đà Lạt khoảng ba cây số đường chim bay, lên đó bằng xe đạp phải gò lưng đạp lên dốc rồi phanh xe từ từ xuống, lên xuống như thế vài ba con dốc từ chợ Đà Lạt lên, mất gần khoảng nửa tiếng mới tới nơi.
Vân Linh có điều kiện ở nội trú, hàng ngày có xe của trường đưa đón giáo viên và học sinh nội trú.
Tôi ở ngoài, trọ học nhà kiến trúc sư Mậu. Ông Mậu là bạn của gia đình ông Bùi Khắc Minh, bạn cố hữu của bố tôi từ thuở hàn vi ở Nam Định. Ông Bùi Khắc Minh coi tôi như con, viết thư gửi gắm tôi cẩn thận cho gia đình ông Mậu. Vợ chồng ông Mậu ở một ngôi nhà nhỏ, bên rìa con đường dốc từ chợ Đà Đạt đi xuống, thấp hơn mặt đường một chút. Ông bà đã có một bé gái xinh xắn khoảng hai tuổi, tên là Liên. Bà ở nhà chăm sóc con và làm công việc nội trợ. Ông đi vắng cả ngày, tôi chỉ thỉnh thoảng gặp vào bữa ăn.
Bà Mậu, đã được ông căn dặn, không vi phạm giờ giấc sinh hoạt của tôi. Hàng ngày đi học, toàn bằng xe đạp, càng làm đôi chân tôi thêm dẻo dai. Sau bữa ăn, tôi trông bé Liên một lúc cho bà dọn dẹp. Bé Liên có nhiều đồ chơi, ngoan, ít quấy, không gây phiền hà cho tôi. Quan hệ giữa gia đình với tôi đúng mức, đầy đủ trách nhiệm. Tôi nhớ ơn ông bà Mậu. Rất tiếc sau Cách Mạng tháng 8, tôi không bao giờ gặp lại gia đình ông bà nữa.
Đà Lạt không để lại cho tôi ấn tượng gì nhiều về học tập. Trường xé lẻ, bảo đảm cho chương trình đạt đủ thời lượng và chất lượng nội dung các tiết học là thầy và trò đã đạt yêu cầu, làm tròn trách nhiệm rồi. Thiếu hẳn không khí sôi nổi, hồ hởi thi đua học tập, cùng nhau hăng hái tiến tới ngày phát phần thưởng cuối năm như mọi khi. Học sinh và các giáo sư Pháp (ở Lycée giáo viên được gọi là giáo sư trung học), tuy không nói ra nhưng ít nhiều đều có tâm tư lo lắng về thời cuộc. Không quân Mỹ vẫn tiếp tục bắn phá đường tàu Bắc Nam.
Đà Lạt vẫn yên tĩnh thanh bình. Khí hậu trên cao nguyên Lang Biang suốt năm đều là mùa xuân. Tuy nhiên vào tháng Giêng - tháng Hai, nhiệt độ có thấp hơn một chút. Buổi sáng đến trường, sương mù còn chưa tan, nên khá rét. Đến 9 giờ, tan sương, mặt trời lóe sáng, ấm hẳn lên, nhưng vẫn se se lạnh. Lúc đó lớp học được nghỉ giải lao sau hai tiết, Vân Linh và tôi thường rủ nhau ra sân ngồi sưởi nắng. Bọn học sinh con trai hay ở lại trong lớp đùa nghịch hoặc đánh cờ. Giáo viên tranh thủ đi bách bộ cho thư giãn. Ông thầy dạy triết của chúng tôi, xưa nay vui tính hay trò truyện hỏi han chúng tôi, trở nên ít nói, trầm ngâm, hai tay đút túi quần, đứng lặng nhìn cánh rừng thưa trước mặt, thỉnh thoảng một con nai chạy vút qua, một con khác chạy tiếp theo, rồi biến nhanh khỏi tầm nhìn. Mọi vật lại trở nên tĩnh lặng. Vân Linh và tôi rì rầm nói chuyện hoặc ôn bài.
Vào đầu mùa mưa, cao nguyên thỉnh thoảng đột ngột có cơn giông. Không thông tin thời tiết, trường chỉ biết “trông trời, trông đất, trông mây”. Một buổi chiều, sắp đến giờ ra chơi, một cơn giông ập đến, rất nhanh, sấm chớp ầm ầm, bỗng một tia sáng lóe, rồi một tiếng sét đánh ngang qua lớp xé tan bầu không khí, chúng tôi nằm rạp cả xuống theo phản xạ. Khi cả lũ lổm ngổm bò dậy, thấy Jacques Patterson, cao to nhất lớp, đang nằm sõng soài dưới đất. Tưởng hắn đã chết, mọi người xúm lại thì anh chàng cũng vừa mở mắt chống tay ngồi lên, toét miệng: “Không hề gì! Trời đánh tao cũng không chết mà!”. “Mon Dieu! Tu as de la veine!” (Chúa ơi! Số mày đỏ đấy), có người thốt lên. Ai nấy đều cười sảng khoái, hú vía, đã thoát nạn.
Ký ức về trường lớp ở Đà Lạt chỉ có thế, tẻ nhạt.
Nhưng Đà Lạt để lại cho tôi dấu ấn sâu đậm về một môi trường thiên nhiên hầu như còn nguyên vẹn, ở những nơi tôi đã được đến và nếu như được bàn tay con người tác động đến một số ít ở chỗ khác, cũng là để nâng tầm giá trị lên.
Những ngày chủ nhật và nghỉ lễ, Vân Linh thường từ ký túc xá ra chơi với tôi. Chúng tôi ít đi vãng cảnh các biệt thự của Đà Lạt, những villas kiến trúc độc đáo kiểu Pháp, dinh cơ của Bảo Đại, Nam Phương Hoàng Hậu và của hoàng gia v.v. Chúng tôi hay rủ nhau đi thăm những phong cảnh kỳ vỹ của Đà Lạt, cùng tản bộ đến tận thác Cam Ly, đến Rừng Tình Yêu (Bois d’Amour), tưởng tượng một đôi uyên ương đang tựa một gốc cây thông cao nào đó, tình tự trong tiếng lá rừng xào xạc. Xa hơn nữa và ở ngả khác, chúng tôi đến Hồ Than Thở (Lac des Soupirs) mờ mờ trong sương mù. Nơi đây còn giữ được nguyên vẹn nét hoang vu tĩnh lặng của một môi trường chưa bị bàn tay con người khai phá hoặc tô vẽ. Cảnh vật này gợi lại trong tôi cảm giác thời thơ ấu ở vùng sông nước xứ Lào. Song, nay không chỉ còn là cảm giác, mà xen vào cảm xúc đó là những tình cảm và suy tư của một thanh niên tuổi đôi mươi, ít nhiều đã thấm nhuần văn học phương Tây, đặc biệt trào lưu Lãng mạn cuối thế kỷ 19 - nửa đầu thế kỷ 20. Trước Cam Ly thượng (Haut Camly), bật lên trong đầu óc tôi cảnh tượng thác Niagara kỳ vỹ được François-René Chateaubriand mô tả tài tình trong Atala. Bên Hồ Than Thở thì thầm vỗ sóng cạnh bờ lau, lại nhớ tới Le Lac (Hồ) và L´Isolement (Cô Đơn) của Lamartine, trong đó cảnh hồ, sông, núi được miêu tả với những vần thơ tuyệt mỹ cả về ý thơ lẫn âm điệu. Bước đi trên những lá khô của Rừng Tình Yêu gợi lên những khía cạnh khác của rừng: âm vang của bài thơ Tiếng thu với “con nai vàng ngơ ngác”của Lưu Trọng Lư. Trước những vạt rừng rậm rạp âm u quanh Hồ Than Thở, nhìn những tia nắng vàng buổi hoàng hôn lướt trên hồ buồn tênh, văng vẳng từ xa nghe tiếng súng của thợ săn và tiếng chó sủa rượt theo con mồi, chúng tôi không thể liên tưởng tới bài La mort du loup (Cái chết của con sói), tác phẩm của Alfred de Vigny. Ông Jugain và bà Bommart, giáo sư Pháp văn của chúng tôi từ cinquième đến seconde, đã nhiều lần đọc cho chúng tôi bài thơ đầy biểu cảm đó, vừa đọc vừa phân tích nêu bật sự kiên cường của con sói, tuy bị tử thương dưới họng súng của đám thợ săn bao vây nó, vẫn kiêu hãnh bất khuất chờ đợi cái chết, không một tiếng kêu. Bất giác một trong hai chúng tôi xướng lên một câu thơ, hay một đoạn văn đã thuộc lòng từ lúc còn ngồi trên ghế nhà trường Lycée. Sự tâm đắc đó thắt chặt thêm tình bạn giữa hai chúng tôi.
Vào những ngày nghỉ khác, chúng tôi lại du ngoạn đến những làng hoa, tới những vạt vườn trồng các rau quả đặc sản của Đà Lạt. Lợi dụng khí hậu ôn đới, quanh năm là cả bốn mùa xuân, người Pháp đã di thực một số các giống hoa quý và rau ngon của miền Nam (Midi) nước Pháp. Các hạt giống được Trạm nông nghiệp vùng Đăng-kia (Dankia - Đà Lạt) và Lang Biang gieo trồng từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Từ đó những cư dân từ Nghệ An, Hà Tĩnh, Thừa Thiên, Huế, Hà Đông và Hà Nội đã vào đây lập ấp, mở làng. Làng hoa chuyên canh đầu tiên ấp Hà Đông đã được người dân từ Quảng Bá, Nghi Tàm, Tây Tửu, Vạn Phúc, và Ngọc Hà xây dựng từ năm 1938. Dưới bàn tay chăm bón của những người dân thuộc các làng nghề trồng hoa của cả nước, Đà Lạt đã tập trung và phát triển các loại hoa quý hiếm Đông - Tây rực rỡ tuyệt đẹp, tô thắm cho một môi trường thiên nhiên vốn dĩ huyền diệu.
Sau khi dạo bước dưới các hàng cây anh đào xòe tán rợp hoa một màu hồng phơn phớt, đang mùa nở rộ, chúng tôi lạc vào vườn artichaut. Những cây cao ngang vai, đôi khi lấp đầu, chìa ra những lá khía răng cưa lưng phơn phớt lông trắng che lấp, ở đầu cành những bông artichaut màu tím nhô lên giữa những lá bắc dầy và nhọn. Nhà vườn thường giữ chúng tôi khách phương xa - nhưng là đồng hương miền Bắc- thết chúng tôi một bữa artichaut vừa mới hái. Hoa artichaut luộc lên, chỉ ăn có phần gốc của lá và đế hoa, chấm muối chanh, thơm và ngon.
Lần khác chúng tôi lại đến các thửa vườn trồng toàn dâu tây đang mùa ra quả (tháng Giêng - tháng Hai). Theo chân bọn trẻ con, chúng tôi lách giữa các luống dâu san sát, thi với bọn trẻ bới hái những quả dâu chín mọng, sao cho khéo, để giữ cho từng trái cái đài lá xanh xoè ra đỡ lấy quả dâu chín đỏ thơm lừng. Bao giờ giỏ dâu do bọn trẻ hái cũng mau đầy hơn của chúng tôi. Ra về, chúng tôi hay được tặng một túi dâu làm quà cho bà Mậu. Đó là cách người dân ở đây tỏ chút thịnh tình với chúng tôi đã đến thăm và cho các cháu giấy bút, tranh ảnh.
Song, các buổi du ngoạn ưa thích của chúng tôi vẫn là với các miệt vườn hoa chuyên canh. Nhờ khí hậu ôn đới trên cao nguyên này, Đà Lạt cả bốn mùa đều có hoa, không thiếu một loại nào, cả những loại quý hiếm hồi đó, chỉ nơi đây mới có hoặc phát triển tốt hơn ở chỗ khác, như hồng nhung chỉ Đà Lạt mới có hồng đen, chỉ lên đây mới thấy glaïeul tím. Bên cạnh những cúc đại đóa vàng rực một màu đế vương, và những cây hoa lys (huệ tây) vươn lên những ngồng loa kèn trắng muốt nhị vàng lốm đốm cao sang, dàn trải trên nền cỏ xanh nào cẩm chướng, marguerites, pensées đủ màu, như cánh bướm chập chờn trước gió. Sắc màu lộng lẫy dưới bắng ban mai và hương thơm thoang thoảng của hoa đưa du khách theo “hồn bướm mơ tiên”.
Tuy nhiên, anh đào phơn phớt hồng phai, và mimosa một màu vàng khuê các, đối với tôi vẫn là nét đặc sắc đầy mỹ cảm mà Đà Lạt biết gìn giữ và phát triển, trong khi tiếc thay các vườn bích đào Nhật Tân ngày càng mai một qua gần trăm năm trong cuộc bể dâu.
Hè 1944, tôi tốt nghiệp tú tài phần thứ hai ban Philo-Sciences. Giã từ Đà Lạt trở ra Hà Nội cũng là chia tay với Vân Linh người bạn thân, theo sắp xếp của trường phải về cùng số học sinh nội trú. Không ngờ sau lần chia tay đó, tôi mất liên lạc trực tiếp với Vân Linh. Một số bạn cho hay, ít lâu sau khi đỗ tú tài xong, Vân Linh đã kết hôn với Đặng Vũ Trứ, con trai lớn của bác sĩ Đặng Vũ Lạc. Đặng Vũ Trứ đã mất không biết trước hay sau ngày toàn quốc kháng chiến. Bặt vô âm tín với Vân Linh cho tới năm 1978, nhân dịp vào công tác ở thành phố Hồ Chí Minh, tôi được gặp lại Vân Linh trong mộc cuộc tiếp xúc ngắn ngủi, có mặt bà Vân Đài, nguyên chủ bút báo Tân Văn (và hình như có họ hàng bà con với Vân Linh?) tại nhà riêng của Vân Linh, trong một căn phòng giản dị tuềnh toàng. Vân Linh đang sửa lại mấy chiếc áo dài, nói là chuẩn bị để ra nước ngoài. Vân Linh đã nghỉ không dạy Anh văn cho học sinh một trường trung học, do một số khúc mắc với giáo viên mới vào tiếp quản trường. Vân Linh đã kết hôn với nguyên đại sứ của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa tại Philippines. Hai người không có con, nhận một bé trai làm con nuôi. Đây là những thông tin ngoài lề, Vân Linh không kể cho tôi hay. Lần thứ hai gặp lại Vân Linh vào năm 1980, tôi cùng đi với anh Nam. Dẫn chúng tôi đi ăn kem, Vân Linh vui vẻ, cởi mở nhưng toàn “khen tôi” với anh Nam, dặn dò anh không được “bắt nạt” tôi, tỏ ra rất “liền chị”, như hồi còn đi học ở Lycée, bao giờ cũng ra mặt bảo vệ tôi đối với bạn học con trai. Về phần riêng tư, Vân Linh chỉ nói lên những phản ứng của mình đối với những sai phạm trong giảng dạy Anh văn của những giáo viên Anh văn hay dương dương tự đắc. Do cũng đang dạy Anh văn, anh Nam rất tâm đắc với Vân Linh trong vấn đề này. Cuộc hội ngộ đã gây được thiện cảm của anh Nam đối với Vân Linh: một phụ nữ thông minh, thẳng thắn, cởi mở, nhiệt tình, có lòng yêu nước, sẵn sàng cống hiến nếu… Chúng tôi chia tay nhau, hẹn có ngày gặp lại, nhưng đều không tin chắc chắn vào lời hứa hẹn đó. Ít lâu sau, chúng tôi được biết Vân Linh sang Pháp rồi sang Mỹ, hiện nay đang sống ở đó. Chúng tôi không liên lạc với nhau. Chuyện ngày xưa coi như một kỷ niệm đẹp để lại trong ký ức.
(còn tiếp)
Chú giải:
_______
(Các chủ giải có ghi N.Đ.Đ. ở cuối là do Nguyễn Đình Đăng thêm vào.)
[1] Những năm 1940, Hà Nội lần đầu bị không quân Mỹ ném bom trong chiến dịch không kích các căn cứ quân sự của quân đội Nhật ở Việt Nam. Ngày 10 tháng 12 năm 1943, máy bay Mỹ, gồm 12 chiếc B-25 và 15 chiếc P-40, đã ném gần 100 quả bom xuống 30 vị trí, gần như nằm trên một đường thẳng kéo dài từ công ty GECKO ở đường Mandarine (nay là đường Lê Duẩn), qua các đường Neyret (phố Cửa Nam), Puginier (đường Điện Biên Phủ) và thành Hà Nội, đến đường Dieulefils (phố Đặng Dung). (N.Đ.Đ., theo tài liệu của Trung tâm Lưu trữ Quốc gia và cbi-history.com)
[2] Sân vận động Cột Cờ, đã ngừng hoạt động vào năm 2004. (N.Đ.Đ.)
[3] Nay là phố Nguyễn Cảnh Chân.
[4] Cercle sportif, ở đầu phố Cộng Hòa (Rue de la République), nay là bể bơi Ba Đình.
[5] Sông Pha (N.Đ.Đ.)
[6] Kà Bơ (N.Đ.Đ.)
[7] Eo Gió (N.Đ.Đ.)
[8] Đơn Dương (N.Đ.Đ.)
[9] Từ 22/5/1972 Ceylan (tiếng Anh Ceylon) đã trở thành nước cộng hòa Sri Lanka. (N.Đ.Đ.)
[10] Đa Thọ (N.Đ.Đ.)
[11] Nhà ga Đà Lạt, do hai kiến trúc sư người Pháp Paul Moncet và Paul Rèveron thiết kế, bắt đầu được xây dựng năm 1932 và đi vào sử dụng năm 1937. Thiết kế của nhà ga này được cho là gợi nhớ đến nhà ga Deauville ở tỉnh Calvados thuộc vùng Normandie (Tây Bắc nước Pháp). (N.Đ.Đ.)
------------------
NHỚ LẠI
Hồi ký của bác sỹ Vũ Thị Chín (*)
(trích IV)
(*) Bác sỹ Vũ Thị Chín sinh năm 1924, tốt nghiệp bác sỹ năm 1952 tại Đại học Y khoa Hà Nội, tốt nghiệp chuyên khoa nhi năm 1954 tại Đại học Y khoa Paris, hiện sống tại Hà nội.
*****************************************************************
Các nỗi truân chuyên trong thập niên 1944-1954.
Những tháng ngày tiền cách mạng
___________________________________________
HÈ 1944
Hè 1944 tôi cùng chị Hương sang Lào thăm gia đình. Chúng tôi đi tàu hỏa tới Đông Hà, rồi từ đó đến Thakhek bằng ô tô. Lúc đó chị Hương đã đi làm được mấy năm nên tháo vát, tôi chỉ việc đi theo chị.
Bố mẹ tôi đã dọn sang dãy tám gian. Thầy tôi đã nghỉ dạy học. Chị Uyên mở một cửa hàng bán thực phẩm khô ở gian ngoài tầng dưới. Tâm giúp chị công việc nội trợ. Nguyên đã lên Vientiane học trường Pavie. Các cháu Thế Anh [1] và Thế Huyền về với bố đã tái hôn. Thakhek lúc đó cũng phải chịu một cổ hai tròng Pháp-Nhật. Nghe nói “một số người của ta” hoạt động bí mật quanh vùng Napé, Mahasay, trong các bản có cả người Lào lẫn người Việt sinh sống, cách Thakhek khoảng 5 km. Anh Bùi Văn Các, con ông Bùi Khắc Minh (bạn của bố tôi khi ấy) làm agent technique (dân mình thường gọi là kỹ sư lục lộ) ở các vùng này. Thỉnh thoảng anh có đến thăm bố tôi và gia đình. Người ta thì thầm rỉ tai nhau anh là “cán bộ”. Sau cách mạng anh công tác ở vụ kế hoạch, rồi trở thành thứ trưởng Bộ Kế hoạch.
Hè đó, hãng ô tô trước nhà cũ chúng tôi chỉ còn rất ít xe chở khách. Đi lại giữa Thakhek - Vinh có những lúc phải do xe của Nhật giải quyết cho dân. Chúng tôi đã phải sử dụng phương tiện đó, sau khi tham khảo ý kiến của anh Các. Thỉnh thoảng mới có chuyến xe, nên chúng tôi phải rút ngắn thời gian nghỉ hè. Bố tôi gửi gắm hai chị em chúng tôi cho một số bà con người Việt (khoảng 10 người) cùng lên một chiếc xe camion Nhật.
Đến đèo Tân Ấp, trong một vòng cua giữa một bên là vách núi, một bên là vực, chỉ vừa lối cho xe chạy một chiều, ô tô trượt bánh lao xuống vực, quay lộn mấy vòng. Nghe lao xao có tiếng người nhẩy ra khỏi xe, rồi tôi ngất đi. Tỉnh dậy, tôi thấy có máu chảy trên má phía dưới tai trái. Người ta đang khiêng tôi lên dốc, tay trái tôi rất đau ở cổ tay, chắc bị gẫy nên tay được quấn băng đeo lên cổ ngang trước ngực. Chị Hương theo sau những người khiêng tôi. Chiếc camion nằm chỏng gọng, bánh ngửa lên trời, được hai cây to chặn lại, nếu không đã lăn xuống suối, không biết số phận còn đi tới đâu. Trong chuyến xe, mỗi một mình tôi bị thương đáng kể: rách một bên vành tai trái và gãy cổ tay trái. Tôi được sơ cứu tại một địa điểm nào đó tôi không nhớ, gần nơi xảy ra tai nạn. Một chiếc xe khác được điều đến chở tất cả hành khách quay lại Thakhek.
Tôi được đưa vào nhà thương. Bác sĩ Quang khâu lại tai và bó bột tay gẫy của tôi. Hồi đó ở đây chưa có máy x-quang. Kết quả bó bột tốt xấu tùy vào kỹ thuật của thầy thuốc. Tôi phải đeo tay bó bột hơn một tháng. Trời nóng, ngứa ngáy, chỉ muốn phá bột ra.
Lúc đầu tay còn sưng, bột bó chặt. Ít lâu sau, tay ngót đi, ngọ ngoạy được các ngón. Sau một tháng, cắt bột, khám lại, có vẻ can chưa cốt hóa hoàn toàn, tiếp tục nẹp một thời gian nữa.
Sắp tới ngày tựu trường, bố tôi đề xuất hay là tôi thôi học, đi dạy như chị Hương. Tôi không đồng ý, xin được học tiếp, tôi vẫn có học bổng. Bố tôi khuyên con gái nên chọn ngành sư phạm, nếu ngành y, thì nên học dược. Tôi không thích dược, muốn học y, nghĩ rằng sau này sẽ giúp được nhiều người ốm đau, trước tiên cho mẹ tôi về già hay bệnh nọ, tật kia. Cuối cùng bố tôi chấp nhận. Với kinh nghiệm dạy học lâu năm, bố tôi biết quá rõ là học hành chẳng mang lại kết quả tốt đẹp gì nếu bị ép và thiếu sự say mê.
Kiểm tra tay lần cuối, bác sỹ Quang nói đã ổn. Song tôi thấy tay tôi tuy úp ngửa không còn đau, nhưng vòng quay phần nào bị hạn chế và cổ tay hơi cong lồi ra trên mắt cá tay. Ông Quang dặn tiếp tục tập quay cổ tay. Đành coi như được. Tay gẫy đã lành mà.
Bố mẹ tôi sắp xếp cho hai chị em tôi trở lại Hà Nội. Bố dặn dò chị Hương đi đường và sau này chăm sóc tôi. Tôi không ngờ đó là lần cuối chúng tôi được bố đưa chúng tôi lên xe, và vẫy nhìn khi xe chuyển bánh. Thương bố vô cùng.
Về tới Hà Nội, chị Hương dẫn tôi tới nhà thương Yersin (bệnh viện Phủ Doãn rồi Việt Đức bây giờ) để chụp x-quang chỗ tay bị gãy. Bác sĩ Vũ Đình Tụng [2] xem phim x-quang cho biết vết gãy đã liền rồi, nhưng do bó bột không kéo tay ra được thẳng nên hơi bị cong gồ lên. Tôi hỏi: “Thế đập chỗ gẫy cũ bó lại cho thẳng có được không?” Có lẽ câu hỏi ngốc nghếch làm bác sỹ Tụng cười. Ông trả lời đôn hậu: “Không cần đâu cháu ạ, chỉ hơi bị cong một tý thôi, tay áo che đi cũng chẳng nhìn thấy đâu. Cử động của tay và ngón tay được bình thường là tốt rồi cháu ạ”. Đành theo lời khuyên của thầy thuốc thôi.
VÀO ĐẠI HỌC
Niên học 1944-1945 tôi vào khoa SPCN (Sciences Physique, Chimie et Histoire Naturelle), tức Lý, Hoá, Sinh của trường Đại học khoa học (Faculté des Scienes) mới thành lập, nghĩ rằng đó là sự tiếp nối đương nhiên của Philo-Scienses.
Tất cả các trường Y, Dược, Khoa học, Luật lúc đó đều nằm trong Đại học Hà Nội (Université de Hanoi) tọa lạc trên phố Bobillot (Lê Thánh Tông bây giờ). Do đó tôi được gặp lại ở đây một số bạn cũ của trường Lycée: Phạm Thị Tuấn, Trần Thị Ân học dược. Ở trường luật có Lê Thị Tý và La Vallée, cô gái lai xinh đẹp thường được so sánh trước đây với Hortense Vouillon. Trong các buổi gặp ngắn ngủi ở sân trường, chúng tôi ít có dịp tâm sự với nhau, trừ Phạm Thị Tuấn, đôi lúc có ít nhiều bức xúc, bạn đang phân vân về vấn đề hôn nhân, chỉ cho chúng tôi nhận diện từ xa anh Lê V.H. sinh viên y. Hai cậu của Tuấn, bạn đồng môn của anh H. định giới thiệu anh cho Tuấn. Chúng tôi nghĩ, quyết định là do Tuấn sau khi có sự tìm hiểu, song đều có chung nhận xét: Ở tuổi 20, lấy chồng là sớm vì ít nhiều sẽ gây trở ngại cho việc học hành.
Việc học của chúng tôi gần giữa năm 1945 bị gián đoạn do thời cuộc.
BƯỚC NGOẶT NĂM 1945
Ngày 9 tháng 3 năm 1945, quân đội Nhật tước vũ khí của Pháp chỉ trong vòng một đêm. Chưa đầy 48 tiếng, quyền lực của Pháp đã rơi vào tay Nhật. Từ những ngày đầu, Nhật áp đặt một số quyết định: cấm xuất bản và phát hành những báo chí bằng tiếng Pháp, ban hành thiết quân luật, cấm hoạt động của đài phát thanh, lấy cớ các nhà chức trách Pháp ngầm hoạt động với kẻ thù của Nhật Bản.
Vua Bảo Đại ra tuyên bố độc lập, hủy bỏ mọi hiệp ước đã ký với Pháp và thắt chặt sự liên minh giữa Việt Nam và Nhật bản. Chính phủ Trần Trọng Kim ra đời, song nội các Trần Trọng Kim mãi tới 17 tháng 4 năm 1945 mới thành lập xong.
Nạn đói, dịch bệnh tiếp tục hoành hành. Những vụ trưng thu tích trữ gạo, nạn đầu cơ làm cho tình hình bất ổn càng trầm trọng thêm.
Trong tình hình hỗn loạn đó, cậu tham sắp xếp cho mợ tham đưa các em tạm lánh về Thái Bình.
Ngay từ ngày 10/3/1945, tất cả các giáo sư người Pháp bị đẩy ra khỏi trường Đại Học, nay được đặt dưới sự chỉ đạo của một cố vấn Nhật.
Trường Khoa học đóng cửa. Tôi rời hà Nội về quê. Xuống ga Nam Định, tôi đi bộ về Đại Đê. Xung quanh ga, người đói nằm la liệt, có người đang ngắc ngoải. Trên đường, những người còn đi được, thất thểu, người gầy như xác ve. Tôi không có thức ăn gì trên tay, nếu có từ trên tàu, có người bảo tôi sẽ bị cướp giật ngay. Tôi vừa đi mà lòng vừa khắc khoải, xót xa.
Về tới nhà, ngày hôm sau, tôi cùng với mấy cô em họ nấu cháo, khiêng ra đầu chợ cứu đói, lúc đó gọi là phát chẩn, cũng chỉ được mỗi ngày một bữa, mỗi người được một gáo đổ đầy một bát to, đủ để cầm hơi. Gạo nước do một số người còn có bát ăn bát để, hảo tâm sẵn sàng giúp đỡ bà con xóm giềng thiếu đói, cũng là lá lành đùm lá rách. Quê tôi chỉ là một xã nghèo.
Một sự kiện xảy ra trong gia đình chú Thanh vào thời gian này. Một đêm, tôi không nhớ vào tháng mấy, một nhóm ba bốn người bắt chú Thanh đưa đi đâu không rõ. Không ai biết đó là ai. Ngọc, con trai lớn của cô Lương, đang học ở thành Nam, lẩn tránh về quê nói rằng ở Nam Định một số thanh niên bị quân lính Nhật hoặc một nhóm người không rõ thuộc đảng phái nào, đến bắt đi.
Hè 1945, trường Đại Học không hoạt động. Tôi tiếp tục ở lại quê, nên rất tiếc không được chứng kiến và sống ngày 19 tháng 8 huy hoàng tại Hà Nội.
Cách Mạng tháng 8 và ngày mùng 2 tháng 9 năm 1945
________________________________________________
(...) Nạn đói là thách thức lớn. Phát huy phong trào tiền cách mạng tại nhiều làng xã chống Pháp-Nhật, không để chúng vơ vét thóc gạo, nhổ lúa trồng đay, rồi tổ chức nhau lại chiếm các kho thóc gạo, chính phủ cách mạng phát động nhân dân đoàn kết tương trợ, đẩy mạnh sản xuất, thực hiện “hũ gạo cứu tế”, quyên góp lương thực, tiền bạc (tuần lễ vàng) khoanh lại được nạn đói, tiến tới dập tắt.
Ngoài phong trào bình dân học vụ, cơ sở của nền giáo dục quốc gia được xây dựng và triển khai. Tiếng Việt trở thành ngôn ngữ chính thống được sử dụng ở mọi cấp học.
Mợ tham Rư cho các em từ Thái Bình lên đi học lại. Song các em đã mất bố. Cậu Rư tôi, trong khi đợi chính phủ Trần Trọng Kim thiết lập xong bộ máy chính quy mới, đã về Thái Bình thăm gia đình bằng tàu thủy. Tàu chật như nêm, người người chen chúc nhau. Chẳng may cậu mắc phải bệnh sốt chấy rận (typhus) đang mùa dịch lây từ hành khách sang. Cậu đã qua đời để lại mợ và 7 đứa con, con gái lớn nhất mới 15 tuổi, đứa út mới lên 4. Tôi về sống cùng mợ và các em ở 84 phố Thể Dục.
VÀO TRƯỜNG Y
Khoa SPCN không còn nữa.
Tôi vào học năm thứ nhất trường y của nước Việt Nam độc lập. Học bằng ngôn ngữ tiếng Việt, nhưng do từ chuyên môn chưa dịch sang được tiếng Việt, nên tạm thời vẫn dùng tiếng Pháp rồi thay thế dần.
Sinh viên y buổi sáng đi thực tập ở các bệnh viện, buổi chiều đến giảng đường trường y nghe các giáo sư và giảng viên thuyết trình. Đối với năm thứ nhất và năm thứ hai, chương trình học nặng nhất là giải phẫu học (anatomie) một số buổi chiều tại viện giải phẫu (Institut anatomique), trong các tiết thực hành. Các trợ lý giải phẫu (aide d’anatomie) vừa mổ các thi thể đã được ướp khô và lưu giữ bằng formol, vừa chỉ dẫn cho chúng tôi mọi chi tiết giải phẫu của cơ thể con người.
Chúng tôi hồi đó có những người tiên phong trong xây dựng nền y học Việt Nam, sau này trở thành những giáo sư nổi danh trong và ngoài nước: giáo sư Hồ Đắc Di - hiệu trưởng trường y, giáo sư Tôn Thất Tùng - giám đốc bệnh viện Yersin, bác sỹ Phạm Biểu Tâm - sau này là giáo sư hiệu trưởng trường y Sài Gòn, và những aide d’anatomie [3] kỳ cựu sau này cũng trở thành những giáo sư danh tiếng không kém các bậc đàn anh, như giáo sư Hoàng Đình Cầu, giáo sư Nguyễn Hữu về giải phẫu ở Sài Gòn rồi giáo sư phẫu thuật lồng ngực ở Brest. Từ các khoa khác cũng có những thầy thuốc khả kính, trở thành những trụ cột xây dựng ngành, như bác sỹ Đặng Văn Chung - chủ nhiệm khoa nội, chuyên gia về tim mạch, bác sỹ Vũ Công Hòe - chủ nghiệm khoa xét nghiệm, cả hai ông đều đã đạt danh hiệu giáo sư sau khi đỗ agrégé [4] tại Paris, bác sỹ Đinh Văn Thắng - chủ nhiệm khoa sản, bàn tay vàng trong phẫu thuật sản khoa, sau này làm giám đốc bệnh viện Bạch Mai (trước đây là bệnh viện René Robin). Lớp hậu sinh chúng tôi đã được lớp đàn anh đầy nhiệt huyết, ở thuở ban đầu dựng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đó, tận tình chỉ dẫn không những về kỹ thuật chuyên môn, mà cả về thái độ tác phong đạo đức hành nghề.
Năm 1945 kết thúc trong bầu không khí không thật yên hàn do nạn đói chưa chấm dứt hẳn, đầu cơ còn lũng đoạn, nhất là có tin đồn quân viễn chinh Pháp của tướng Leclerc, được quân đội Anh tiếp tay, đã chiếm một số thành phố lớn ở Nam Bộ và Trung Bộ.
Chính phủ Việt nam tập trung tăng cường sức mạnh cho cuộc kháng chiến ở miền Nam. Trong lớp tôi, một số bạn tình nguyện gia nhập đoàn quân Nam tiến. Trường y tiếp tục hoạt động dưới sự điều hành của những thầy thuốc Việt Nam đầy tâm huyết.
(...)
Ở miền Bắc, sau thất bại của Nhật bản trong thế chiến thứ II, quân đội của Tưởng Giới Thạch, dưới sự chỉ huy của tướng Lư Hán, bắt tay thương lượng với Pháp, cho phép Pháp thay chân quân của Tưởng bằng nhường lại cho Tưởng một số quyền lợi ở Trung Quốc. Song quân của Lư Hán thấy ở Việt nam còn quá dễ chịu, nên nhùng nhằng chưa chịu rút quân ngay. Họ đã gây nhiều sự cố ở trong thành và ngoài phố. Sự kiện quan trọng nhất đã xảy ra vào ngày 21/4/1946.
NGÀY PHỤC SINH ĐẪM MÁU 21/4/1946
Người Pháp gọi sự kiện này là “Les Pâques Sanglantes” vì nó xảy ra đúng vào ngày lễ Phục Sinh (21/4/1946) của Thiên Chúa giáo, và gây nhiều thương vong. Phát sinh từ sự đụng độ giữa hai xe quân sự, một của quân đội Tưởng (hơn 10 người), một của nhà binh Pháp, ở gần hồ Hoàn Kiếm, trước hiệu thuốc tây Lafon, ngay ở trước đường Đồng Khá (phố Hàng Bài bây giờ) và đường Paul Bert (nay là phố Tràng Tiền), va chạm đã dẫn tới nổ súng, đổ máu và có người chết.
Sự kiện gây phản ứng tức thì từ phía Pháp và thúc đẩy Lư Hán phải rút quân.
Nhiều Pháp kiều đã hý hửng mừng thầm sắp được quay trở lại thời vàng son. Nhưng sau thất bại của hội nghị Đà Lạt, tiếp đến cuộc thương lượng không thành công tại Hội nghị Fontainebleau, viện quân Pháp không ngừng đổ bộ vào Việt nam, gây những khiêu khích tại nhiều nơi.
20/11/1946: quân Pháp nổ súng vào lực lượng Việt Nam ở Hải Phòng uy hiếp các khu đông dân cư, rồi chiếm Hải Phòng và Lạng Sơn, hai cửa ngõ vào miền Bắc.
17/12/1946: quân Pháp tấn công phố Hàng Bún Hà Nội, gây nhiều thương vong. Bà cô của anh Nam trúng đạn phải cắt một quả thận.
18/12/1946: quân Pháp đánh chiếm Bộ Tài chính và Bộ Giao thông.
Dân quân tự vệ Hà Nội dùng chướng ngại vật ngoài đường phố, đục tường thông giữa các nhà dân để chống lại với những cuộc tấn công của quân Pháp.
19/12/1946: Pháp gửi tối hậu thư cho chính phủ Việt Nam, buộc gỡ các chướng ngại vật và tước vũ khí của dân quân tự vệ Hà Nội, ép Việt Nam phải giao cho quân Pháp quyền cai trị thủ đô Hà Nội.
Chiều tối 19/12/1946 Hồ Chủ Tịch ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN - TẢN CƯ.
1946 - 1949: TÔI THAM GIA KHÁNG CHIẾN
20 giờ ngày 19/12/1946, còi ủ vang lên. Đáp ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch: “Thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, lực lượng vũ trang của ta đồng loạt tấn công giặc, loa phóng thanh thúc giục đồng bào mau chóng tản cư ra khỏi thành phố.
Trong một đợt dãn dân trước đó, chủ yếu là người già, và trẻ em, mợ Rư và tất cả các em đã về Thái Bình. Trước khi mợ đi, mợ giao lại cho tôi và chị Hương chìa khóa nhà và chiếc xe đạp, dặn sau này có lệnh tản cư nữa thì hai chị em khóa kỹ các cửa, đóng cổng và cùng nhau về Thái Bình.
Hai chúng tôi mỗi người một cái túi đựng vài bộ quần áo, đồ dùng cá nhân, khoác lên vai, những thứ còn lại cần mang theo cho vào chiếc va-li con buộc vào xe đạp, rồi cùng đồng bào lũ lượt kéo nhau ra khỏi thành phố trong đêm tối. Đi về phía Nam, trên quốc lộ một theo hướng Phủ Lý rồi Nam Định. Lúc đầu cũng hơi lúng túng vì hai chị em chỉ có một xe đạp, trời lại tối. May thay, trên đường gặp bác sỹ Mậu ở Quan Thánh, chị Hương quen. Gia đình ông đã tản cư từ trước, nay ông về tụ hợp với gia đình. Đi cùng hướng một đoạn đường, ông chở đỡ một trong hai chúng tôi, cho tới khi mỗi bên đi một ngả, chia tay hình như ở Phủ Lý. Ít nhất cũng được nửa đường. Tiếng đạn pháo của thành phố chiến đấu xa dần. Đến sáng, chúng tôi đến Nam Định. Không rẽ ngay về quê, chúng tôi đi thẳng sang Thái Bình, qua phà Tân Đệ, về tới thị xã quãng trưa. Chúng tôi được mợ Rư, các em, và gia đình mợ cả Phan, cậu nghị Lư, chú giáo Chứ, đón nghe cuộc hành trình rút lui của dân ra khỏi thành phố, “bảo toàn lực lượng”. Những gì cần mang theo, mợ và các em đã đem đi từ trước. Chúng tôi trao trả cho mợ chìa khóa nhà 84 phố Thể Dục và chiếc xe đạp. Lưu lại ở Thái Bình thêm vài ngày cho lại sức, rồi chúng tôi xin phép về với các cô chú bên nội ở xã Đại Đê huyện Vụ Bản, cách thành Nam 7 km. Mợ tham thấy cũng hợp lý nên đồng ý. Vả lại nam Định và Thái Bình chỉ cách nhau 20 km.
Lần này đi bằng đường thủy từ sáng sớm. Đến quá trưa thì về đến Đại Đê. Các cô chú chúng tôi rất mừng thấy chúng tôi đã về an toàn sau một tuần bặt vô âm tín, “không biết hai đứa nó ra sao”!
Khi chiến dịch lan rộng, làng tôi không xa thành phố, lại là cơ sở có thể đánh du kích, được chọn là nơi đặt một trạm cứu thương để sơ cứu các chiến sỹ và nhân dân bị thương. Trạm do bác sỹ Bích và nhân viên y tế của thành phố Nam Định đảm nhiệm. Những bệnh nhân nặng được trạm chuyển vào Ý Yên nơi có Quân y viện liên khu 3 do bác sỹ Nguyễn Trinh Cơ [5] và một số đồng nghiệp điều hành.
Ít ngày sau khi trạm cứu thương của bác sỹ Bích đến cắm tại xã tôi, tôi tình nguyện hàng ngày ra giúp trạm. Chẳng được bao lâu, địch bắn phá thành phố. Nam Định tiêu thổ kháng chiến, đạn pháo bắn vào làng tôi ngày càng nhiều. Trạm cứu thương phải di chuyển cùng thương bệnh binh, một phần theo bác sỹ Bích đến một địa điểm mới, một phần tới Quân y viện ở Ý Yên.
Dân làng tôi cũng phải tản cư, chỉ có lực lượng chiến đấu ở lại. Cô Lương tôi, do quê chồng ở Khả Chính, cách Đại Đê 2 - 3 cây số, tản cư sang đó. Ba con trai của cô chú đều đã vào cả dân quân tự vệ (...) Cô Lương bảo hai chị em tôi: “Hai chị em cháu cứ ở Khả Chính cùng cô chú cho tới khi tản cư nữa, thì cùng đi.” Song tôi đề nghị với cô chú cho được đi theo trạm cứu thương, nghĩ rằng chiến tranh còn kéo dài, không biết còn bao lâu nữa, không thể ở mãi nhà cô chú được, các em con cô tôi cũng đều đã tham gia chiến đấu.
Chị Hương cố thuyết phục tôi ở lại cùng cô chú Lương. Trong mấy ngày sơ tán sang Khả Chính, chị đã kín đáo khâu vào trong gấu quần gấu áo mặc trên người một số đồ trang sức và tiền nong chị dành dụm được trong những năm đi làm. Chị bỏ vào bị tôi một ít tiền lẻ, không nhiều vì chị không tin tưởng vào tính vô tâm, bất cẩn của tôi.
Cô tôi và chị tôi khuyên nhủ mãi tôi không được. Súng đạn bắt đầu bắn sát sàn sạt đến Khả Chính. Cô chú tôi chuẩn bị tản cư tới điểm mới. Tôi khoác túi lên vai xin phép lên đường đi Ý Yên. Phút quyết định đã được vượt qua trong tích tắc. Tôi từ giã cô chú và chị, cắm đầu đi, đi được một đoạn đường, thì chị Hương cũng theo chân tôi, không nỡ để em đi một mình.
Cứ thế mà đi, nào tôi đã biết Ý Yên ở đâu. Nhưng trên đường, từ các ngả, rất nhiều người cũng đi về hướng Ý Yên, chỉ việc đi theo. Đến chiều, chúng tôi đã đến Quân y viện của bác sỹ Nguyễn Trinh Cơ. Ở đó chúng tôi gặp bác sỹ Chương, giám đốc bệnh viện hộ sinh tư Ngõ Trạm Hà Nội (thường gọi là nhà thương Ngõ Trạm), một người quá quen biết đối với gia đình cậu tham Rư vì mợ thường sinh các em ở đó. Bác sỹ Nguyễn Trinh Cơ từ Bệnh viện Phủ Doãn, anh Trần Bảo, biệt hiệu “Bảo đen”, lúc đó là sinh viên năm thứ ba hay thứ tư trường thuốc, tất nhiên là quen rồi. Chúng tôi được nhận vào phục vụ Quân y viện. Cả đôi bên đều nhất trí ngay, Quân y viện đang cần người. Chúng tôi cũng đang muốn được an tâm làm việc tại một đơn vị có tổ chức ổn định. Quân y viện phân công tôi theo dõi chăm sóc thương bệnh binh. Chị Hương được bố trí vào bộ phận quản lý hành chính, không khó khăn lắm đối với chị. Chúng tôi được sắp xếp chỗ ở tại một nhà dân. Chủ nhà dành cho chúng tôi một gian nhà ngang, ở chung với cô Ngh. cứu thương (nghe nói sau này trở thành vợ của ông Hà Kế Tấn [6]). Chị Hương và cô Ngh., hai người đều đáo để, thường hay mâu thuẫn, xung đột với nhau. Tôi mặc cho hai người cãi vã nhau. Chán mệt cũng phải thôi.
Một chuyện lạ có thật mà tôi từng chứng kiến là chủ nhà có một cô con dâu bé tý, chừng năm tuổi, đầu cạo chỉ còn lại hai bên hai chỏm tóc như trái đào, mũm mĩm như hạt mít. Không biết đám cưới cô dâu tý hon đó đã được tổ chức ra sao và từ bao giờ. Khi chúng tôi đến, hằng tối, bà mẹ chồng gọi đi ngủ, con trai suýt soát tuổi con dâu, nằm một bên, con dâu phía bên kia. Sáng dậy, cô bé cắp chiếc chổi lúa đi quét la liệt, từ nhà trên đến nhà dưới, xong xuôi cất chổi, ra sân chơi đuổi bắt với chồng, hồn nhiên vô tư, cười như nắc nẻ. Hẳn đứa trẻ chưa có thể nghĩ thế nào là vợ chồng. Đó là chuyện sắp đặt của người lớn, đã ngang nhiên quyết định số phận của chúng.
(còn tiếp)
Chú giải của N.Đ.Đ:
_________________
[1] Sau này là sử gia Nguyễn Thế Anh (1936 - 2023), giáo sư đại học, nguyên viện trưởng Viện Đại học Huế, chủ nhiệm môn sử học tại Đại học Văn khoa Sài Gòn, giáo sư sử học Đại học Sorbonne (Paris). Thân mẫu của ông là chị cả của tác giả.
[2] Vũ Đình Tụng (1895 - 1973) - bác sỹ y khoa và tín đồ Công giáo, tốt nghiệp Cao đẳng Y khoa Đông Dương, từng là Bộ trưởng Bộ Thương binh trong Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và là chủ tịch đầu tiên và lâu nhất (1946 - 1973) của Hội Chữ Thập Đỏ Việt Nam.
[3] Trợ tá giải phẫu hay phụ mổ.
[4] Ở Pháp, các cuộc thi agrégation y khoa, giành chức giáo sư agrégé y khoa, là phương thức tuyển dụng đặc biệt dành cho các giáo sư đại học hành nghề tại các bệnh viện.
[5] Nguyễn Trinh Cơ (1915-1985) - tốt nghiệp khóa thứ tư bác sĩ nội trú các bệnh viện Hà Nội cùng các tân bác sỹ Nguyễn Thúc Tùng, Phạm Biểu Tâm, Đặng Văn Chung, Hoàng Đình Cầu. Ông từng giữ các chức vụ viện trưởng Viện Phẫu thuật Trung ương, hiệu trưởng Trường Quân y sỹ Việt Bắc, tổng biên tập Tạp chí Y học Việt Nam, phó chủ tịch Hội Y học Việt Nam, chủ tịch Hội Ngoại khoa Việt Nam.
[6] Hà Kế Tấn (1912 – 1997) - ủy viên Trung ương ĐCSVN khóa IV, Tư lệnh Liên khu III, bộ trưởng Bộ Thủy lợi, chủ nhiệm Ủy ban Trị thủy và Khai thác sông Hồng, bộ trưởng đặc trách việc khởi công công trình thủy điện sông Đà.
Hồi ký của bác sỹ Vũ Thị Chín (*)
(trích III)
(*) Bác sỹ Vũ Thị Chín sinh năm 1924, tốt nghiệp bác sỹ năm 1952 tại Đại học Y khoa Hà Nội, tốt nghiệp chuyên khoa nhi năm 1954 tại Đại học Y khoa Paris, hiện sống tại Hà nội.
*****************************************************************
Trận ném bom Hà Nội ngày 10 tháng 12 năm 1943 [1]
______________________________________________
Sáng thứ sáu 10/12/1943, vào quãng 11 giờ, còi ở gần sân vận động Mangin (Stade Mangin) [2] rú lên. Như thường lệ, khi có báo động, chúng tôi thu xếp sách vở đồ dùng cho vào cặp và theo thầy cô giáo, qua phố Destenay [3], ra hầm trú ẩn gần trường, cạnh câu lạc bộ thể thao [4]. Ở đó, cách đường đua của sân vận động không xa, có các tranchées (hầm trú ẩn), có chỗ được đào không sâu lắm, chỉ khoảng 80 cm. Chỉ trong chốc lát tiếng động cơ máy bay ầm ầm kéo đến. Một bạn ở gần rìa tranchées đếm được 12 chiếc. Vừa nói xong, thì một tiếng nổ xé trời kèm áp lực không khí và mùi khét lẹt đẩy dồn chúng tôi nằm rạp xuống, đè cả lên nhau. Khi yên tiếng máy bay, chúng tôi lồm cồm ngồi dậy, một lúc mới hoàn hồn thấy mình vẫn còn sống. Nhìn xung quanh thấy có ngọn lửa đang ngùn ngụt bốc cháy một vài chỗ trong thành. Nhặt cặp sách tôi trở lại garage trường lấy xe đạp cùng một vài bạn, ra khỏi trường. Đó là lần cuối, kết thúc chặng đường hơn 5 năm học trường Lycée Albert Sarraut Hà Nội.
Hai ngày sau, một trận ném bom thứ hai lại dội xuống ga Hà Nội, gây không ít thương vong. Đây là khu tập trung đông dân cư. Người dân hoảng loạn.
Cậu tôi thu xếp cho mợ và các em tạm thời về Thái Bình. Vì là công chức nên cậu tôi vẫn ở lại Hà Nội.
Trường Lycée đóng cửa. Giáo viên và học sinh được chia lẻ thành các nhóm: đi Sơn Tây, Tam Đảo, Sầm Sơn.
Riêng lớp chúng tôi, Triết - Khoa học (Philo-Sciences), phải dời lên Đà Lạt sát nhập với trường Lycée Yersin. Chỉ còn chưa đầy một năm là sẽ xong tú tài phần hai. Không ai nghĩ thay cho tôi. Chuyến tàu chở học sinh đi Đà Lạt chỉ một ngày nữa là chuyển bánh. Tôi tự quyết định theo trường đi Đà Lạt. Tôi được cậu tôi động viên, ủng hộ quyết định này.

ĐÀ LẠT
Nhóm học sinh trường Sarraut, trong đó có tôi, lên Đà Lạt bằng tàu hỏa. Chúng tôi gấp rút đóng hành lý. Va-li của tôi quá nhỏ, chỉ đủ đựng quần áo và đồ dùng cá nhân, còn sách vở mang theo tôi phải đóng vào chiếc bồ bằng cót tre mua ở chợ Hôm, buộc dây thừng thật chắc, rồi vứt lên toa tàu. Đi Đà Lạt bằng tàu hỏa là leo lên xe lửa Bắc Nam chạy từ Hà Nội tới Sài Gòn, lúc đó gọi là tàu suốt Bắc Nam, tiếng Pháp có tên xuyên Đông Dương (transindochinois) mới khánh thành chưa được 10 năm (1936).
Rời Hà Nội qua Phủ Lý, Nam Định, Ninh Bình, nhìn thấy cầu Hàm Rồng rồi đến Thanh Hoá, biết rằng từ Thanh Hoá ra Sầm Sơn không xa, tới đây một bộ phận của Lycée cũng đang tổ chức nơi ăn chốn ở cho học sinh. Trước khi đi, tôi còn thấy bà Bommart, dạy chúng tôi Pháp văn ở troisième, tất tưởi trong bộ quần áo dân dã, hô quát lũ học trò nghịch ngợm. Lại nhớ lúc bà cao giọng đanh thép đọc những câu thơ của Corneille trong Le Cid, lúc khác lại lâm ly thống thiết ngâm những vần thơ của Racine. Bà luôn trợn mắt mắng mỏ bọn chúng tôi chỉ biết đọc như vẹt, không biểu hiện nổi được những tình cảm súc tích trong những tác phẩm tuyệt tác đến thế! Song nhớ bà nhiều hơn cả là ở những lọ mứt ổi trong suốt thơm phức và ngọt lịm do chính tay bà làm, thỉnh thoảng gọi chúng tôi đến nhà bà cùng thưởng thức.
Ngủ gà ngủ gật, trong toa tàu lắc lư được kéo trên đường ray, những hình ảnh trên chập chờn trong đầu óc, tựa như trong mơ. Chúng tôi đến ga Vinh hình như vào lúc tờ mờ sáng. Qua mảnh đất khô cằn miền trung, với những người dân được mệnh danh “cá gỗ” do cuộc sống quá khắc nghiệt, ít được thiên nhiên ưu đãi, chịu những cơn gió Lào cháy da, cháy thịt, làm nóng bỏng cát bãi biển Cửa Lò, lại càng bắt nhớ đến những quả cam Xã Đoài mọng nước.
Trước khi đến Quảng Trị phải qua Tân Ấp, nơi đây từ lâu đã có dự kiến làm một đường xe lửa nối Tân Ấp với Thakhek, nhưng dự án đó từ bấy giờ đến nay vẫn chưa thành hiện thực. Hàng năm, vào kỳ nghỉ hè, về thăm gia đình ở Lào, tôi phải xuống ga Vinh rồi đi bằng ô tô qua Tân Ấp để đi tiếp sang Thakhek.
Tân Ấp, Đông Hà, Quảng Trị, rồi tới Huế, giá như được dừng ở đây để đi thăm cố đô, các lăng tẩm, sông Hương, núi Ngự - lại chuyện trong mơ, con tàu tiếp tục cuộc hành trình, chui qua đường hầm tối om để sang bên kia đèo Hải Vân, đến Tourane (Đà Nẵng) với Ngũ Hành Sơn (montagne de Marbre) cách đó không xa, và phố cổ Hội An (FaiFo), rồi Quảng Ngãi, Bình Định, để xuôi dọc các hàng dừa đến Tuy Hoà. Trên tàu chúng tôi được ăn những tấm mía của mảnh đất có nhà máy đường nổi tiếng trước khi tới Nha Trang ở mốc cây số 1215 với bãi biển đẹp có một không hai, một màu nước biển trong xanh từ trên tàu cũng nhìn thấy. Sau Nha Trang, tàu phải qua những vạt rừng, nghe nói có khá nhiều thú rừng để săn bắn. Đến Tháp Chàm (Tour Cham), tàu dừng lại tại địa điểm tiếp cận với con đường xe lửa đưa chúng tôi lên Đà Lạt. Chúng tôi rời con tàu Bắc Nam, chuyển sang tàu đi Đà Lạt. Thành phố này ở độ cao 1500 m trên cao nguyên Lang Biang, khí hậu ôn hòa, đã được người Pháp chọn với dự kiến xây dựng thành một trung tâm hành chính quan trọng. Có thể đó là lý do họ đã thiết kế một tuyến đường sắt có độ dốc lớn, nối với tuyến đường chính Bắc Nam. Người ta đã phải nhờ công ty Thụy Sỹ ở Winterthur cung cấp thiết bị đường ray răng cưa (crémaillère) mới giúp được cho các toa tầu leo nổi các dốc.
Đoạn đầu từ Tháp Chàm đến Krongpha [5], hoàn toàn bằng phẳng, tàu chạy ngon lành. Nhưng từ đó đến Đà Lạt có những khúc độ dốc tới 120mm/m. K’Beu [6] là ga đầu tiên (ở đó dốc 25mm/m) phải sử dụng ray răng cưa (dưới đây sẽ gọi là crémaillère) cho tới Bellevue (đèo Ngoạn Mục) [7]. Từ đây đến Dran [8] lại trở về mặt bằng qua một vùng trồng rau: hai bên đường tàu có những nhà dân với bát ngát những giàn su su trĩu quả. Một vài cô gái, theo sau là một bọn trẻ con, má hồng trắng mịn của người dân vùng cao, kéo nhau ra nhìn đoàn tàu chạy. Trẻ con tíu tít vẫy tay, các cô gái nở miệng cười thân thiện, để lộ hàng răng trắng đều như những hạt lựu. Một cảm giác khoan khoái, dễ chịu, xua tan mọi mệt mỏi lo lắng trong tôi.
Song con tàu lại bắt đầu chạy lừ đừ, ì ạch leo dốc, phải lắp thêm một crémaillère lớn để vượt lên độ cao 1500m, nơi có những vườn trồng loại chè nổi tiếng không kém chè Ceylan [9] thời bấy giờ. Từ đó tầu từ từ xuống dốc qua bạt ngàn những rừng thông cao vút, nghe nói rất lắm hươu nai và nhiều thú rừng khác. Từ ga Le Bosquet (Bụi cây) [10], người ta lắp một crémaillère nhỏ để tiến tới ga cuối cùng Đà Lạt, cách Tháp Chàm 84 km. Ga Đà Lạt có kiến trúc giống ga Deauville (Pháp) [11].
Ở Đà Lạt có khách sạn Liang Bang, Lycée Yersin, trường Thiếu Sinh Quân (École des Enfants de Troupes) địa điểm dành cho lớp Philo-Sciences chúng tôi.
Phân ban Philo-Sciences mới thành lập ở Lycée không đông học sinh lắm. Niên học 1943-1944, xong học kỳ 3 tháng đầu thì dời lên Đà Lạt. Theo trường lên đây chỉ có tôi và Vân Linh là học sinh Việt Nam.
Tiếng là sát nhập với Lycée Yersin, nhưng chủ yếu là cho các học sinh có nhu cầu ở nội trú được sắp xếp vào ký túc xá của Lycée Yersin, còn nơi học tập, do Lycée Yersin chưa có phân ban Philo-Scienses , nên lớp chúng tôi, từ Lycée Albert Sarraut chuyển vào, được bố trí tại địa điểm trường Thiếu Sinh Quân cũ (đã di dời đi đâu tôi không rõ). Đó là dãy nhà một tầng bằng gạch lợp ngói (cũng chỉ có mấy gian) trên một ngọn đồi xa vắng, cách trung tâm Đà Lạt khoảng ba cây số đường chim bay, lên đó bằng xe đạp phải gò lưng đạp lên dốc rồi phanh xe từ từ xuống, lên xuống như thế vài ba con dốc từ chợ Đà Lạt lên, mất gần khoảng nửa tiếng mới tới nơi.
Vân Linh có điều kiện ở nội trú, hàng ngày có xe của trường đưa đón giáo viên và học sinh nội trú.
Tôi ở ngoài, trọ học nhà kiến trúc sư Mậu. Ông Mậu là bạn của gia đình ông Bùi Khắc Minh, bạn cố hữu của bố tôi từ thuở hàn vi ở Nam Định. Ông Bùi Khắc Minh coi tôi như con, viết thư gửi gắm tôi cẩn thận cho gia đình ông Mậu. Vợ chồng ông Mậu ở một ngôi nhà nhỏ, bên rìa con đường dốc từ chợ Đà Đạt đi xuống, thấp hơn mặt đường một chút. Ông bà đã có một bé gái xinh xắn khoảng hai tuổi, tên là Liên. Bà ở nhà chăm sóc con và làm công việc nội trợ. Ông đi vắng cả ngày, tôi chỉ thỉnh thoảng gặp vào bữa ăn.
Bà Mậu, đã được ông căn dặn, không vi phạm giờ giấc sinh hoạt của tôi. Hàng ngày đi học, toàn bằng xe đạp, càng làm đôi chân tôi thêm dẻo dai. Sau bữa ăn, tôi trông bé Liên một lúc cho bà dọn dẹp. Bé Liên có nhiều đồ chơi, ngoan, ít quấy, không gây phiền hà cho tôi. Quan hệ giữa gia đình với tôi đúng mức, đầy đủ trách nhiệm. Tôi nhớ ơn ông bà Mậu. Rất tiếc sau Cách Mạng tháng 8, tôi không bao giờ gặp lại gia đình ông bà nữa.
Đà Lạt không để lại cho tôi ấn tượng gì nhiều về học tập. Trường xé lẻ, bảo đảm cho chương trình đạt đủ thời lượng và chất lượng nội dung các tiết học là thầy và trò đã đạt yêu cầu, làm tròn trách nhiệm rồi. Thiếu hẳn không khí sôi nổi, hồ hởi thi đua học tập, cùng nhau hăng hái tiến tới ngày phát phần thưởng cuối năm như mọi khi. Học sinh và các giáo sư Pháp (ở Lycée giáo viên được gọi là giáo sư trung học), tuy không nói ra nhưng ít nhiều đều có tâm tư lo lắng về thời cuộc. Không quân Mỹ vẫn tiếp tục bắn phá đường tàu Bắc Nam.
Đà Lạt vẫn yên tĩnh thanh bình. Khí hậu trên cao nguyên Lang Biang suốt năm đều là mùa xuân. Tuy nhiên vào tháng Giêng - tháng Hai, nhiệt độ có thấp hơn một chút. Buổi sáng đến trường, sương mù còn chưa tan, nên khá rét. Đến 9 giờ, tan sương, mặt trời lóe sáng, ấm hẳn lên, nhưng vẫn se se lạnh. Lúc đó lớp học được nghỉ giải lao sau hai tiết, Vân Linh và tôi thường rủ nhau ra sân ngồi sưởi nắng. Bọn học sinh con trai hay ở lại trong lớp đùa nghịch hoặc đánh cờ. Giáo viên tranh thủ đi bách bộ cho thư giãn. Ông thầy dạy triết của chúng tôi, xưa nay vui tính hay trò truyện hỏi han chúng tôi, trở nên ít nói, trầm ngâm, hai tay đút túi quần, đứng lặng nhìn cánh rừng thưa trước mặt, thỉnh thoảng một con nai chạy vút qua, một con khác chạy tiếp theo, rồi biến nhanh khỏi tầm nhìn. Mọi vật lại trở nên tĩnh lặng. Vân Linh và tôi rì rầm nói chuyện hoặc ôn bài.
Vào đầu mùa mưa, cao nguyên thỉnh thoảng đột ngột có cơn giông. Không thông tin thời tiết, trường chỉ biết “trông trời, trông đất, trông mây”. Một buổi chiều, sắp đến giờ ra chơi, một cơn giông ập đến, rất nhanh, sấm chớp ầm ầm, bỗng một tia sáng lóe, rồi một tiếng sét đánh ngang qua lớp xé tan bầu không khí, chúng tôi nằm rạp cả xuống theo phản xạ. Khi cả lũ lổm ngổm bò dậy, thấy Jacques Patterson, cao to nhất lớp, đang nằm sõng soài dưới đất. Tưởng hắn đã chết, mọi người xúm lại thì anh chàng cũng vừa mở mắt chống tay ngồi lên, toét miệng: “Không hề gì! Trời đánh tao cũng không chết mà!”. “Mon Dieu! Tu as de la veine!” (Chúa ơi! Số mày đỏ đấy), có người thốt lên. Ai nấy đều cười sảng khoái, hú vía, đã thoát nạn.
Ký ức về trường lớp ở Đà Lạt chỉ có thế, tẻ nhạt.
Nhưng Đà Lạt để lại cho tôi dấu ấn sâu đậm về một môi trường thiên nhiên hầu như còn nguyên vẹn, ở những nơi tôi đã được đến và nếu như được bàn tay con người tác động đến một số ít ở chỗ khác, cũng là để nâng tầm giá trị lên.
Những ngày chủ nhật và nghỉ lễ, Vân Linh thường từ ký túc xá ra chơi với tôi. Chúng tôi ít đi vãng cảnh các biệt thự của Đà Lạt, những villas kiến trúc độc đáo kiểu Pháp, dinh cơ của Bảo Đại, Nam Phương Hoàng Hậu và của hoàng gia v.v. Chúng tôi hay rủ nhau đi thăm những phong cảnh kỳ vỹ của Đà Lạt, cùng tản bộ đến tận thác Cam Ly, đến Rừng Tình Yêu (Bois d’Amour), tưởng tượng một đôi uyên ương đang tựa một gốc cây thông cao nào đó, tình tự trong tiếng lá rừng xào xạc. Xa hơn nữa và ở ngả khác, chúng tôi đến Hồ Than Thở (Lac des Soupirs) mờ mờ trong sương mù. Nơi đây còn giữ được nguyên vẹn nét hoang vu tĩnh lặng của một môi trường chưa bị bàn tay con người khai phá hoặc tô vẽ. Cảnh vật này gợi lại trong tôi cảm giác thời thơ ấu ở vùng sông nước xứ Lào. Song, nay không chỉ còn là cảm giác, mà xen vào cảm xúc đó là những tình cảm và suy tư của một thanh niên tuổi đôi mươi, ít nhiều đã thấm nhuần văn học phương Tây, đặc biệt trào lưu Lãng mạn cuối thế kỷ 19 - nửa đầu thế kỷ 20. Trước Cam Ly thượng (Haut Camly), bật lên trong đầu óc tôi cảnh tượng thác Niagara kỳ vỹ được François-René Chateaubriand mô tả tài tình trong Atala. Bên Hồ Than Thở thì thầm vỗ sóng cạnh bờ lau, lại nhớ tới Le Lac (Hồ) và L´Isolement (Cô Đơn) của Lamartine, trong đó cảnh hồ, sông, núi được miêu tả với những vần thơ tuyệt mỹ cả về ý thơ lẫn âm điệu. Bước đi trên những lá khô của Rừng Tình Yêu gợi lên những khía cạnh khác của rừng: âm vang của bài thơ Tiếng thu với “con nai vàng ngơ ngác”của Lưu Trọng Lư. Trước những vạt rừng rậm rạp âm u quanh Hồ Than Thở, nhìn những tia nắng vàng buổi hoàng hôn lướt trên hồ buồn tênh, văng vẳng từ xa nghe tiếng súng của thợ săn và tiếng chó sủa rượt theo con mồi, chúng tôi không thể liên tưởng tới bài La mort du loup (Cái chết của con sói), tác phẩm của Alfred de Vigny. Ông Jugain và bà Bommart, giáo sư Pháp văn của chúng tôi từ cinquième đến seconde, đã nhiều lần đọc cho chúng tôi bài thơ đầy biểu cảm đó, vừa đọc vừa phân tích nêu bật sự kiên cường của con sói, tuy bị tử thương dưới họng súng của đám thợ săn bao vây nó, vẫn kiêu hãnh bất khuất chờ đợi cái chết, không một tiếng kêu. Bất giác một trong hai chúng tôi xướng lên một câu thơ, hay một đoạn văn đã thuộc lòng từ lúc còn ngồi trên ghế nhà trường Lycée. Sự tâm đắc đó thắt chặt thêm tình bạn giữa hai chúng tôi.
Vào những ngày nghỉ khác, chúng tôi lại du ngoạn đến những làng hoa, tới những vạt vườn trồng các rau quả đặc sản của Đà Lạt. Lợi dụng khí hậu ôn đới, quanh năm là cả bốn mùa xuân, người Pháp đã di thực một số các giống hoa quý và rau ngon của miền Nam (Midi) nước Pháp. Các hạt giống được Trạm nông nghiệp vùng Đăng-kia (Dankia - Đà Lạt) và Lang Biang gieo trồng từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Từ đó những cư dân từ Nghệ An, Hà Tĩnh, Thừa Thiên, Huế, Hà Đông và Hà Nội đã vào đây lập ấp, mở làng. Làng hoa chuyên canh đầu tiên ấp Hà Đông đã được người dân từ Quảng Bá, Nghi Tàm, Tây Tửu, Vạn Phúc, và Ngọc Hà xây dựng từ năm 1938. Dưới bàn tay chăm bón của những người dân thuộc các làng nghề trồng hoa của cả nước, Đà Lạt đã tập trung và phát triển các loại hoa quý hiếm Đông - Tây rực rỡ tuyệt đẹp, tô thắm cho một môi trường thiên nhiên vốn dĩ huyền diệu.
Sau khi dạo bước dưới các hàng cây anh đào xòe tán rợp hoa một màu hồng phơn phớt, đang mùa nở rộ, chúng tôi lạc vào vườn artichaut. Những cây cao ngang vai, đôi khi lấp đầu, chìa ra những lá khía răng cưa lưng phơn phớt lông trắng che lấp, ở đầu cành những bông artichaut màu tím nhô lên giữa những lá bắc dầy và nhọn. Nhà vườn thường giữ chúng tôi khách phương xa - nhưng là đồng hương miền Bắc- thết chúng tôi một bữa artichaut vừa mới hái. Hoa artichaut luộc lên, chỉ ăn có phần gốc của lá và đế hoa, chấm muối chanh, thơm và ngon.
Lần khác chúng tôi lại đến các thửa vườn trồng toàn dâu tây đang mùa ra quả (tháng Giêng - tháng Hai). Theo chân bọn trẻ con, chúng tôi lách giữa các luống dâu san sát, thi với bọn trẻ bới hái những quả dâu chín mọng, sao cho khéo, để giữ cho từng trái cái đài lá xanh xoè ra đỡ lấy quả dâu chín đỏ thơm lừng. Bao giờ giỏ dâu do bọn trẻ hái cũng mau đầy hơn của chúng tôi. Ra về, chúng tôi hay được tặng một túi dâu làm quà cho bà Mậu. Đó là cách người dân ở đây tỏ chút thịnh tình với chúng tôi đã đến thăm và cho các cháu giấy bút, tranh ảnh.
Song, các buổi du ngoạn ưa thích của chúng tôi vẫn là với các miệt vườn hoa chuyên canh. Nhờ khí hậu ôn đới trên cao nguyên này, Đà Lạt cả bốn mùa đều có hoa, không thiếu một loại nào, cả những loại quý hiếm hồi đó, chỉ nơi đây mới có hoặc phát triển tốt hơn ở chỗ khác, như hồng nhung chỉ Đà Lạt mới có hồng đen, chỉ lên đây mới thấy glaïeul tím. Bên cạnh những cúc đại đóa vàng rực một màu đế vương, và những cây hoa lys (huệ tây) vươn lên những ngồng loa kèn trắng muốt nhị vàng lốm đốm cao sang, dàn trải trên nền cỏ xanh nào cẩm chướng, marguerites, pensées đủ màu, như cánh bướm chập chờn trước gió. Sắc màu lộng lẫy dưới bắng ban mai và hương thơm thoang thoảng của hoa đưa du khách theo “hồn bướm mơ tiên”.
Tuy nhiên, anh đào phơn phớt hồng phai, và mimosa một màu vàng khuê các, đối với tôi vẫn là nét đặc sắc đầy mỹ cảm mà Đà Lạt biết gìn giữ và phát triển, trong khi tiếc thay các vườn bích đào Nhật Tân ngày càng mai một qua gần trăm năm trong cuộc bể dâu.
Hè 1944, tôi tốt nghiệp tú tài phần thứ hai ban Philo-Sciences. Giã từ Đà Lạt trở ra Hà Nội cũng là chia tay với Vân Linh người bạn thân, theo sắp xếp của trường phải về cùng số học sinh nội trú. Không ngờ sau lần chia tay đó, tôi mất liên lạc trực tiếp với Vân Linh. Một số bạn cho hay, ít lâu sau khi đỗ tú tài xong, Vân Linh đã kết hôn với Đặng Vũ Trứ, con trai lớn của bác sĩ Đặng Vũ Lạc. Đặng Vũ Trứ đã mất không biết trước hay sau ngày toàn quốc kháng chiến. Bặt vô âm tín với Vân Linh cho tới năm 1978, nhân dịp vào công tác ở thành phố Hồ Chí Minh, tôi được gặp lại Vân Linh trong mộc cuộc tiếp xúc ngắn ngủi, có mặt bà Vân Đài, nguyên chủ bút báo Tân Văn (và hình như có họ hàng bà con với Vân Linh?) tại nhà riêng của Vân Linh, trong một căn phòng giản dị tuềnh toàng. Vân Linh đang sửa lại mấy chiếc áo dài, nói là chuẩn bị để ra nước ngoài. Vân Linh đã nghỉ không dạy Anh văn cho học sinh một trường trung học, do một số khúc mắc với giáo viên mới vào tiếp quản trường. Vân Linh đã kết hôn với nguyên đại sứ của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa tại Philippines. Hai người không có con, nhận một bé trai làm con nuôi. Đây là những thông tin ngoài lề, Vân Linh không kể cho tôi hay. Lần thứ hai gặp lại Vân Linh vào năm 1980, tôi cùng đi với anh Nam. Dẫn chúng tôi đi ăn kem, Vân Linh vui vẻ, cởi mở nhưng toàn “khen tôi” với anh Nam, dặn dò anh không được “bắt nạt” tôi, tỏ ra rất “liền chị”, như hồi còn đi học ở Lycée, bao giờ cũng ra mặt bảo vệ tôi đối với bạn học con trai. Về phần riêng tư, Vân Linh chỉ nói lên những phản ứng của mình đối với những sai phạm trong giảng dạy Anh văn của những giáo viên Anh văn hay dương dương tự đắc. Do cũng đang dạy Anh văn, anh Nam rất tâm đắc với Vân Linh trong vấn đề này. Cuộc hội ngộ đã gây được thiện cảm của anh Nam đối với Vân Linh: một phụ nữ thông minh, thẳng thắn, cởi mở, nhiệt tình, có lòng yêu nước, sẵn sàng cống hiến nếu… Chúng tôi chia tay nhau, hẹn có ngày gặp lại, nhưng đều không tin chắc chắn vào lời hứa hẹn đó. Ít lâu sau, chúng tôi được biết Vân Linh sang Pháp rồi sang Mỹ, hiện nay đang sống ở đó. Chúng tôi không liên lạc với nhau. Chuyện ngày xưa coi như một kỷ niệm đẹp để lại trong ký ức.
(còn tiếp)

Chú giải:
_______
(Các chủ giải có ghi N.Đ.Đ. ở cuối là do Nguyễn Đình Đăng thêm vào.)
[1] Những năm 1940, Hà Nội lần đầu bị không quân Mỹ ném bom trong chiến dịch không kích các căn cứ quân sự của quân đội Nhật ở Việt Nam. Ngày 10 tháng 12 năm 1943, máy bay Mỹ, gồm 12 chiếc B-25 và 15 chiếc P-40, đã ném gần 100 quả bom xuống 30 vị trí, gần như nằm trên một đường thẳng kéo dài từ công ty GECKO ở đường Mandarine (nay là đường Lê Duẩn), qua các đường Neyret (phố Cửa Nam), Puginier (đường Điện Biên Phủ) và thành Hà Nội, đến đường Dieulefils (phố Đặng Dung). (N.Đ.Đ., theo tài liệu của Trung tâm Lưu trữ Quốc gia và cbi-history.com)
[2] Sân vận động Cột Cờ, đã ngừng hoạt động vào năm 2004. (N.Đ.Đ.)
[3] Nay là phố Nguyễn Cảnh Chân.
[4] Cercle sportif, ở đầu phố Cộng Hòa (Rue de la République), nay là bể bơi Ba Đình.
[5] Sông Pha (N.Đ.Đ.)
[6] Kà Bơ (N.Đ.Đ.)
[7] Eo Gió (N.Đ.Đ.)
[8] Đơn Dương (N.Đ.Đ.)
[9] Từ 22/5/1972 Ceylan (tiếng Anh Ceylon) đã trở thành nước cộng hòa Sri Lanka. (N.Đ.Đ.)
[10] Đa Thọ (N.Đ.Đ.)
[11] Nhà ga Đà Lạt, do hai kiến trúc sư người Pháp Paul Moncet và Paul Rèveron thiết kế, bắt đầu được xây dựng năm 1932 và đi vào sử dụng năm 1937. Thiết kế của nhà ga này được cho là gợi nhớ đến nhà ga Deauville ở tỉnh Calvados thuộc vùng Normandie (Tây Bắc nước Pháp). (N.Đ.Đ.)
------------------
NHỚ LẠI
Hồi ký của bác sỹ Vũ Thị Chín (*)
(trích IV)
(*) Bác sỹ Vũ Thị Chín sinh năm 1924, tốt nghiệp bác sỹ năm 1952 tại Đại học Y khoa Hà Nội, tốt nghiệp chuyên khoa nhi năm 1954 tại Đại học Y khoa Paris, hiện sống tại Hà nội.
*****************************************************************
Các nỗi truân chuyên trong thập niên 1944-1954.
Những tháng ngày tiền cách mạng
___________________________________________
HÈ 1944
Hè 1944 tôi cùng chị Hương sang Lào thăm gia đình. Chúng tôi đi tàu hỏa tới Đông Hà, rồi từ đó đến Thakhek bằng ô tô. Lúc đó chị Hương đã đi làm được mấy năm nên tháo vát, tôi chỉ việc đi theo chị.
Bố mẹ tôi đã dọn sang dãy tám gian. Thầy tôi đã nghỉ dạy học. Chị Uyên mở một cửa hàng bán thực phẩm khô ở gian ngoài tầng dưới. Tâm giúp chị công việc nội trợ. Nguyên đã lên Vientiane học trường Pavie. Các cháu Thế Anh [1] và Thế Huyền về với bố đã tái hôn. Thakhek lúc đó cũng phải chịu một cổ hai tròng Pháp-Nhật. Nghe nói “một số người của ta” hoạt động bí mật quanh vùng Napé, Mahasay, trong các bản có cả người Lào lẫn người Việt sinh sống, cách Thakhek khoảng 5 km. Anh Bùi Văn Các, con ông Bùi Khắc Minh (bạn của bố tôi khi ấy) làm agent technique (dân mình thường gọi là kỹ sư lục lộ) ở các vùng này. Thỉnh thoảng anh có đến thăm bố tôi và gia đình. Người ta thì thầm rỉ tai nhau anh là “cán bộ”. Sau cách mạng anh công tác ở vụ kế hoạch, rồi trở thành thứ trưởng Bộ Kế hoạch.
Hè đó, hãng ô tô trước nhà cũ chúng tôi chỉ còn rất ít xe chở khách. Đi lại giữa Thakhek - Vinh có những lúc phải do xe của Nhật giải quyết cho dân. Chúng tôi đã phải sử dụng phương tiện đó, sau khi tham khảo ý kiến của anh Các. Thỉnh thoảng mới có chuyến xe, nên chúng tôi phải rút ngắn thời gian nghỉ hè. Bố tôi gửi gắm hai chị em chúng tôi cho một số bà con người Việt (khoảng 10 người) cùng lên một chiếc xe camion Nhật.
Đến đèo Tân Ấp, trong một vòng cua giữa một bên là vách núi, một bên là vực, chỉ vừa lối cho xe chạy một chiều, ô tô trượt bánh lao xuống vực, quay lộn mấy vòng. Nghe lao xao có tiếng người nhẩy ra khỏi xe, rồi tôi ngất đi. Tỉnh dậy, tôi thấy có máu chảy trên má phía dưới tai trái. Người ta đang khiêng tôi lên dốc, tay trái tôi rất đau ở cổ tay, chắc bị gẫy nên tay được quấn băng đeo lên cổ ngang trước ngực. Chị Hương theo sau những người khiêng tôi. Chiếc camion nằm chỏng gọng, bánh ngửa lên trời, được hai cây to chặn lại, nếu không đã lăn xuống suối, không biết số phận còn đi tới đâu. Trong chuyến xe, mỗi một mình tôi bị thương đáng kể: rách một bên vành tai trái và gãy cổ tay trái. Tôi được sơ cứu tại một địa điểm nào đó tôi không nhớ, gần nơi xảy ra tai nạn. Một chiếc xe khác được điều đến chở tất cả hành khách quay lại Thakhek.
Tôi được đưa vào nhà thương. Bác sĩ Quang khâu lại tai và bó bột tay gẫy của tôi. Hồi đó ở đây chưa có máy x-quang. Kết quả bó bột tốt xấu tùy vào kỹ thuật của thầy thuốc. Tôi phải đeo tay bó bột hơn một tháng. Trời nóng, ngứa ngáy, chỉ muốn phá bột ra.
Lúc đầu tay còn sưng, bột bó chặt. Ít lâu sau, tay ngót đi, ngọ ngoạy được các ngón. Sau một tháng, cắt bột, khám lại, có vẻ can chưa cốt hóa hoàn toàn, tiếp tục nẹp một thời gian nữa.
Sắp tới ngày tựu trường, bố tôi đề xuất hay là tôi thôi học, đi dạy như chị Hương. Tôi không đồng ý, xin được học tiếp, tôi vẫn có học bổng. Bố tôi khuyên con gái nên chọn ngành sư phạm, nếu ngành y, thì nên học dược. Tôi không thích dược, muốn học y, nghĩ rằng sau này sẽ giúp được nhiều người ốm đau, trước tiên cho mẹ tôi về già hay bệnh nọ, tật kia. Cuối cùng bố tôi chấp nhận. Với kinh nghiệm dạy học lâu năm, bố tôi biết quá rõ là học hành chẳng mang lại kết quả tốt đẹp gì nếu bị ép và thiếu sự say mê.
Kiểm tra tay lần cuối, bác sỹ Quang nói đã ổn. Song tôi thấy tay tôi tuy úp ngửa không còn đau, nhưng vòng quay phần nào bị hạn chế và cổ tay hơi cong lồi ra trên mắt cá tay. Ông Quang dặn tiếp tục tập quay cổ tay. Đành coi như được. Tay gẫy đã lành mà.
Bố mẹ tôi sắp xếp cho hai chị em tôi trở lại Hà Nội. Bố dặn dò chị Hương đi đường và sau này chăm sóc tôi. Tôi không ngờ đó là lần cuối chúng tôi được bố đưa chúng tôi lên xe, và vẫy nhìn khi xe chuyển bánh. Thương bố vô cùng.
Về tới Hà Nội, chị Hương dẫn tôi tới nhà thương Yersin (bệnh viện Phủ Doãn rồi Việt Đức bây giờ) để chụp x-quang chỗ tay bị gãy. Bác sĩ Vũ Đình Tụng [2] xem phim x-quang cho biết vết gãy đã liền rồi, nhưng do bó bột không kéo tay ra được thẳng nên hơi bị cong gồ lên. Tôi hỏi: “Thế đập chỗ gẫy cũ bó lại cho thẳng có được không?” Có lẽ câu hỏi ngốc nghếch làm bác sỹ Tụng cười. Ông trả lời đôn hậu: “Không cần đâu cháu ạ, chỉ hơi bị cong một tý thôi, tay áo che đi cũng chẳng nhìn thấy đâu. Cử động của tay và ngón tay được bình thường là tốt rồi cháu ạ”. Đành theo lời khuyên của thầy thuốc thôi.
VÀO ĐẠI HỌC
Niên học 1944-1945 tôi vào khoa SPCN (Sciences Physique, Chimie et Histoire Naturelle), tức Lý, Hoá, Sinh của trường Đại học khoa học (Faculté des Scienes) mới thành lập, nghĩ rằng đó là sự tiếp nối đương nhiên của Philo-Scienses.
Tất cả các trường Y, Dược, Khoa học, Luật lúc đó đều nằm trong Đại học Hà Nội (Université de Hanoi) tọa lạc trên phố Bobillot (Lê Thánh Tông bây giờ). Do đó tôi được gặp lại ở đây một số bạn cũ của trường Lycée: Phạm Thị Tuấn, Trần Thị Ân học dược. Ở trường luật có Lê Thị Tý và La Vallée, cô gái lai xinh đẹp thường được so sánh trước đây với Hortense Vouillon. Trong các buổi gặp ngắn ngủi ở sân trường, chúng tôi ít có dịp tâm sự với nhau, trừ Phạm Thị Tuấn, đôi lúc có ít nhiều bức xúc, bạn đang phân vân về vấn đề hôn nhân, chỉ cho chúng tôi nhận diện từ xa anh Lê V.H. sinh viên y. Hai cậu của Tuấn, bạn đồng môn của anh H. định giới thiệu anh cho Tuấn. Chúng tôi nghĩ, quyết định là do Tuấn sau khi có sự tìm hiểu, song đều có chung nhận xét: Ở tuổi 20, lấy chồng là sớm vì ít nhiều sẽ gây trở ngại cho việc học hành.
Việc học của chúng tôi gần giữa năm 1945 bị gián đoạn do thời cuộc.
BƯỚC NGOẶT NĂM 1945
Ngày 9 tháng 3 năm 1945, quân đội Nhật tước vũ khí của Pháp chỉ trong vòng một đêm. Chưa đầy 48 tiếng, quyền lực của Pháp đã rơi vào tay Nhật. Từ những ngày đầu, Nhật áp đặt một số quyết định: cấm xuất bản và phát hành những báo chí bằng tiếng Pháp, ban hành thiết quân luật, cấm hoạt động của đài phát thanh, lấy cớ các nhà chức trách Pháp ngầm hoạt động với kẻ thù của Nhật Bản.
Vua Bảo Đại ra tuyên bố độc lập, hủy bỏ mọi hiệp ước đã ký với Pháp và thắt chặt sự liên minh giữa Việt Nam và Nhật bản. Chính phủ Trần Trọng Kim ra đời, song nội các Trần Trọng Kim mãi tới 17 tháng 4 năm 1945 mới thành lập xong.
Nạn đói, dịch bệnh tiếp tục hoành hành. Những vụ trưng thu tích trữ gạo, nạn đầu cơ làm cho tình hình bất ổn càng trầm trọng thêm.
Trong tình hình hỗn loạn đó, cậu tham sắp xếp cho mợ tham đưa các em tạm lánh về Thái Bình.
Ngay từ ngày 10/3/1945, tất cả các giáo sư người Pháp bị đẩy ra khỏi trường Đại Học, nay được đặt dưới sự chỉ đạo của một cố vấn Nhật.
Trường Khoa học đóng cửa. Tôi rời hà Nội về quê. Xuống ga Nam Định, tôi đi bộ về Đại Đê. Xung quanh ga, người đói nằm la liệt, có người đang ngắc ngoải. Trên đường, những người còn đi được, thất thểu, người gầy như xác ve. Tôi không có thức ăn gì trên tay, nếu có từ trên tàu, có người bảo tôi sẽ bị cướp giật ngay. Tôi vừa đi mà lòng vừa khắc khoải, xót xa.
Về tới nhà, ngày hôm sau, tôi cùng với mấy cô em họ nấu cháo, khiêng ra đầu chợ cứu đói, lúc đó gọi là phát chẩn, cũng chỉ được mỗi ngày một bữa, mỗi người được một gáo đổ đầy một bát to, đủ để cầm hơi. Gạo nước do một số người còn có bát ăn bát để, hảo tâm sẵn sàng giúp đỡ bà con xóm giềng thiếu đói, cũng là lá lành đùm lá rách. Quê tôi chỉ là một xã nghèo.
Một sự kiện xảy ra trong gia đình chú Thanh vào thời gian này. Một đêm, tôi không nhớ vào tháng mấy, một nhóm ba bốn người bắt chú Thanh đưa đi đâu không rõ. Không ai biết đó là ai. Ngọc, con trai lớn của cô Lương, đang học ở thành Nam, lẩn tránh về quê nói rằng ở Nam Định một số thanh niên bị quân lính Nhật hoặc một nhóm người không rõ thuộc đảng phái nào, đến bắt đi.
Hè 1945, trường Đại Học không hoạt động. Tôi tiếp tục ở lại quê, nên rất tiếc không được chứng kiến và sống ngày 19 tháng 8 huy hoàng tại Hà Nội.
Cách Mạng tháng 8 và ngày mùng 2 tháng 9 năm 1945
________________________________________________
(...) Nạn đói là thách thức lớn. Phát huy phong trào tiền cách mạng tại nhiều làng xã chống Pháp-Nhật, không để chúng vơ vét thóc gạo, nhổ lúa trồng đay, rồi tổ chức nhau lại chiếm các kho thóc gạo, chính phủ cách mạng phát động nhân dân đoàn kết tương trợ, đẩy mạnh sản xuất, thực hiện “hũ gạo cứu tế”, quyên góp lương thực, tiền bạc (tuần lễ vàng) khoanh lại được nạn đói, tiến tới dập tắt.
Ngoài phong trào bình dân học vụ, cơ sở của nền giáo dục quốc gia được xây dựng và triển khai. Tiếng Việt trở thành ngôn ngữ chính thống được sử dụng ở mọi cấp học.
Mợ tham Rư cho các em từ Thái Bình lên đi học lại. Song các em đã mất bố. Cậu Rư tôi, trong khi đợi chính phủ Trần Trọng Kim thiết lập xong bộ máy chính quy mới, đã về Thái Bình thăm gia đình bằng tàu thủy. Tàu chật như nêm, người người chen chúc nhau. Chẳng may cậu mắc phải bệnh sốt chấy rận (typhus) đang mùa dịch lây từ hành khách sang. Cậu đã qua đời để lại mợ và 7 đứa con, con gái lớn nhất mới 15 tuổi, đứa út mới lên 4. Tôi về sống cùng mợ và các em ở 84 phố Thể Dục.
VÀO TRƯỜNG Y
Khoa SPCN không còn nữa.
Tôi vào học năm thứ nhất trường y của nước Việt Nam độc lập. Học bằng ngôn ngữ tiếng Việt, nhưng do từ chuyên môn chưa dịch sang được tiếng Việt, nên tạm thời vẫn dùng tiếng Pháp rồi thay thế dần.
Sinh viên y buổi sáng đi thực tập ở các bệnh viện, buổi chiều đến giảng đường trường y nghe các giáo sư và giảng viên thuyết trình. Đối với năm thứ nhất và năm thứ hai, chương trình học nặng nhất là giải phẫu học (anatomie) một số buổi chiều tại viện giải phẫu (Institut anatomique), trong các tiết thực hành. Các trợ lý giải phẫu (aide d’anatomie) vừa mổ các thi thể đã được ướp khô và lưu giữ bằng formol, vừa chỉ dẫn cho chúng tôi mọi chi tiết giải phẫu của cơ thể con người.
Chúng tôi hồi đó có những người tiên phong trong xây dựng nền y học Việt Nam, sau này trở thành những giáo sư nổi danh trong và ngoài nước: giáo sư Hồ Đắc Di - hiệu trưởng trường y, giáo sư Tôn Thất Tùng - giám đốc bệnh viện Yersin, bác sỹ Phạm Biểu Tâm - sau này là giáo sư hiệu trưởng trường y Sài Gòn, và những aide d’anatomie [3] kỳ cựu sau này cũng trở thành những giáo sư danh tiếng không kém các bậc đàn anh, như giáo sư Hoàng Đình Cầu, giáo sư Nguyễn Hữu về giải phẫu ở Sài Gòn rồi giáo sư phẫu thuật lồng ngực ở Brest. Từ các khoa khác cũng có những thầy thuốc khả kính, trở thành những trụ cột xây dựng ngành, như bác sỹ Đặng Văn Chung - chủ nhiệm khoa nội, chuyên gia về tim mạch, bác sỹ Vũ Công Hòe - chủ nghiệm khoa xét nghiệm, cả hai ông đều đã đạt danh hiệu giáo sư sau khi đỗ agrégé [4] tại Paris, bác sỹ Đinh Văn Thắng - chủ nhiệm khoa sản, bàn tay vàng trong phẫu thuật sản khoa, sau này làm giám đốc bệnh viện Bạch Mai (trước đây là bệnh viện René Robin). Lớp hậu sinh chúng tôi đã được lớp đàn anh đầy nhiệt huyết, ở thuở ban đầu dựng nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đó, tận tình chỉ dẫn không những về kỹ thuật chuyên môn, mà cả về thái độ tác phong đạo đức hành nghề.
Năm 1945 kết thúc trong bầu không khí không thật yên hàn do nạn đói chưa chấm dứt hẳn, đầu cơ còn lũng đoạn, nhất là có tin đồn quân viễn chinh Pháp của tướng Leclerc, được quân đội Anh tiếp tay, đã chiếm một số thành phố lớn ở Nam Bộ và Trung Bộ.
Chính phủ Việt nam tập trung tăng cường sức mạnh cho cuộc kháng chiến ở miền Nam. Trong lớp tôi, một số bạn tình nguyện gia nhập đoàn quân Nam tiến. Trường y tiếp tục hoạt động dưới sự điều hành của những thầy thuốc Việt Nam đầy tâm huyết.
(...)
Ở miền Bắc, sau thất bại của Nhật bản trong thế chiến thứ II, quân đội của Tưởng Giới Thạch, dưới sự chỉ huy của tướng Lư Hán, bắt tay thương lượng với Pháp, cho phép Pháp thay chân quân của Tưởng bằng nhường lại cho Tưởng một số quyền lợi ở Trung Quốc. Song quân của Lư Hán thấy ở Việt nam còn quá dễ chịu, nên nhùng nhằng chưa chịu rút quân ngay. Họ đã gây nhiều sự cố ở trong thành và ngoài phố. Sự kiện quan trọng nhất đã xảy ra vào ngày 21/4/1946.
NGÀY PHỤC SINH ĐẪM MÁU 21/4/1946
Người Pháp gọi sự kiện này là “Les Pâques Sanglantes” vì nó xảy ra đúng vào ngày lễ Phục Sinh (21/4/1946) của Thiên Chúa giáo, và gây nhiều thương vong. Phát sinh từ sự đụng độ giữa hai xe quân sự, một của quân đội Tưởng (hơn 10 người), một của nhà binh Pháp, ở gần hồ Hoàn Kiếm, trước hiệu thuốc tây Lafon, ngay ở trước đường Đồng Khá (phố Hàng Bài bây giờ) và đường Paul Bert (nay là phố Tràng Tiền), va chạm đã dẫn tới nổ súng, đổ máu và có người chết.
Sự kiện gây phản ứng tức thì từ phía Pháp và thúc đẩy Lư Hán phải rút quân.
Nhiều Pháp kiều đã hý hửng mừng thầm sắp được quay trở lại thời vàng son. Nhưng sau thất bại của hội nghị Đà Lạt, tiếp đến cuộc thương lượng không thành công tại Hội nghị Fontainebleau, viện quân Pháp không ngừng đổ bộ vào Việt nam, gây những khiêu khích tại nhiều nơi.
20/11/1946: quân Pháp nổ súng vào lực lượng Việt Nam ở Hải Phòng uy hiếp các khu đông dân cư, rồi chiếm Hải Phòng và Lạng Sơn, hai cửa ngõ vào miền Bắc.
17/12/1946: quân Pháp tấn công phố Hàng Bún Hà Nội, gây nhiều thương vong. Bà cô của anh Nam trúng đạn phải cắt một quả thận.
18/12/1946: quân Pháp đánh chiếm Bộ Tài chính và Bộ Giao thông.
Dân quân tự vệ Hà Nội dùng chướng ngại vật ngoài đường phố, đục tường thông giữa các nhà dân để chống lại với những cuộc tấn công của quân Pháp.
19/12/1946: Pháp gửi tối hậu thư cho chính phủ Việt Nam, buộc gỡ các chướng ngại vật và tước vũ khí của dân quân tự vệ Hà Nội, ép Việt Nam phải giao cho quân Pháp quyền cai trị thủ đô Hà Nội.
Chiều tối 19/12/1946 Hồ Chủ Tịch ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN - TẢN CƯ.
1946 - 1949: TÔI THAM GIA KHÁNG CHIẾN
20 giờ ngày 19/12/1946, còi ủ vang lên. Đáp ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ Tịch: “Thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”, lực lượng vũ trang của ta đồng loạt tấn công giặc, loa phóng thanh thúc giục đồng bào mau chóng tản cư ra khỏi thành phố.
Trong một đợt dãn dân trước đó, chủ yếu là người già, và trẻ em, mợ Rư và tất cả các em đã về Thái Bình. Trước khi mợ đi, mợ giao lại cho tôi và chị Hương chìa khóa nhà và chiếc xe đạp, dặn sau này có lệnh tản cư nữa thì hai chị em khóa kỹ các cửa, đóng cổng và cùng nhau về Thái Bình.
Hai chúng tôi mỗi người một cái túi đựng vài bộ quần áo, đồ dùng cá nhân, khoác lên vai, những thứ còn lại cần mang theo cho vào chiếc va-li con buộc vào xe đạp, rồi cùng đồng bào lũ lượt kéo nhau ra khỏi thành phố trong đêm tối. Đi về phía Nam, trên quốc lộ một theo hướng Phủ Lý rồi Nam Định. Lúc đầu cũng hơi lúng túng vì hai chị em chỉ có một xe đạp, trời lại tối. May thay, trên đường gặp bác sỹ Mậu ở Quan Thánh, chị Hương quen. Gia đình ông đã tản cư từ trước, nay ông về tụ hợp với gia đình. Đi cùng hướng một đoạn đường, ông chở đỡ một trong hai chúng tôi, cho tới khi mỗi bên đi một ngả, chia tay hình như ở Phủ Lý. Ít nhất cũng được nửa đường. Tiếng đạn pháo của thành phố chiến đấu xa dần. Đến sáng, chúng tôi đến Nam Định. Không rẽ ngay về quê, chúng tôi đi thẳng sang Thái Bình, qua phà Tân Đệ, về tới thị xã quãng trưa. Chúng tôi được mợ Rư, các em, và gia đình mợ cả Phan, cậu nghị Lư, chú giáo Chứ, đón nghe cuộc hành trình rút lui của dân ra khỏi thành phố, “bảo toàn lực lượng”. Những gì cần mang theo, mợ và các em đã đem đi từ trước. Chúng tôi trao trả cho mợ chìa khóa nhà 84 phố Thể Dục và chiếc xe đạp. Lưu lại ở Thái Bình thêm vài ngày cho lại sức, rồi chúng tôi xin phép về với các cô chú bên nội ở xã Đại Đê huyện Vụ Bản, cách thành Nam 7 km. Mợ tham thấy cũng hợp lý nên đồng ý. Vả lại nam Định và Thái Bình chỉ cách nhau 20 km.
Lần này đi bằng đường thủy từ sáng sớm. Đến quá trưa thì về đến Đại Đê. Các cô chú chúng tôi rất mừng thấy chúng tôi đã về an toàn sau một tuần bặt vô âm tín, “không biết hai đứa nó ra sao”!
Khi chiến dịch lan rộng, làng tôi không xa thành phố, lại là cơ sở có thể đánh du kích, được chọn là nơi đặt một trạm cứu thương để sơ cứu các chiến sỹ và nhân dân bị thương. Trạm do bác sỹ Bích và nhân viên y tế của thành phố Nam Định đảm nhiệm. Những bệnh nhân nặng được trạm chuyển vào Ý Yên nơi có Quân y viện liên khu 3 do bác sỹ Nguyễn Trinh Cơ [5] và một số đồng nghiệp điều hành.
Ít ngày sau khi trạm cứu thương của bác sỹ Bích đến cắm tại xã tôi, tôi tình nguyện hàng ngày ra giúp trạm. Chẳng được bao lâu, địch bắn phá thành phố. Nam Định tiêu thổ kháng chiến, đạn pháo bắn vào làng tôi ngày càng nhiều. Trạm cứu thương phải di chuyển cùng thương bệnh binh, một phần theo bác sỹ Bích đến một địa điểm mới, một phần tới Quân y viện ở Ý Yên.
Dân làng tôi cũng phải tản cư, chỉ có lực lượng chiến đấu ở lại. Cô Lương tôi, do quê chồng ở Khả Chính, cách Đại Đê 2 - 3 cây số, tản cư sang đó. Ba con trai của cô chú đều đã vào cả dân quân tự vệ (...) Cô Lương bảo hai chị em tôi: “Hai chị em cháu cứ ở Khả Chính cùng cô chú cho tới khi tản cư nữa, thì cùng đi.” Song tôi đề nghị với cô chú cho được đi theo trạm cứu thương, nghĩ rằng chiến tranh còn kéo dài, không biết còn bao lâu nữa, không thể ở mãi nhà cô chú được, các em con cô tôi cũng đều đã tham gia chiến đấu.
Chị Hương cố thuyết phục tôi ở lại cùng cô chú Lương. Trong mấy ngày sơ tán sang Khả Chính, chị đã kín đáo khâu vào trong gấu quần gấu áo mặc trên người một số đồ trang sức và tiền nong chị dành dụm được trong những năm đi làm. Chị bỏ vào bị tôi một ít tiền lẻ, không nhiều vì chị không tin tưởng vào tính vô tâm, bất cẩn của tôi.
Cô tôi và chị tôi khuyên nhủ mãi tôi không được. Súng đạn bắt đầu bắn sát sàn sạt đến Khả Chính. Cô chú tôi chuẩn bị tản cư tới điểm mới. Tôi khoác túi lên vai xin phép lên đường đi Ý Yên. Phút quyết định đã được vượt qua trong tích tắc. Tôi từ giã cô chú và chị, cắm đầu đi, đi được một đoạn đường, thì chị Hương cũng theo chân tôi, không nỡ để em đi một mình.
Cứ thế mà đi, nào tôi đã biết Ý Yên ở đâu. Nhưng trên đường, từ các ngả, rất nhiều người cũng đi về hướng Ý Yên, chỉ việc đi theo. Đến chiều, chúng tôi đã đến Quân y viện của bác sỹ Nguyễn Trinh Cơ. Ở đó chúng tôi gặp bác sỹ Chương, giám đốc bệnh viện hộ sinh tư Ngõ Trạm Hà Nội (thường gọi là nhà thương Ngõ Trạm), một người quá quen biết đối với gia đình cậu tham Rư vì mợ thường sinh các em ở đó. Bác sỹ Nguyễn Trinh Cơ từ Bệnh viện Phủ Doãn, anh Trần Bảo, biệt hiệu “Bảo đen”, lúc đó là sinh viên năm thứ ba hay thứ tư trường thuốc, tất nhiên là quen rồi. Chúng tôi được nhận vào phục vụ Quân y viện. Cả đôi bên đều nhất trí ngay, Quân y viện đang cần người. Chúng tôi cũng đang muốn được an tâm làm việc tại một đơn vị có tổ chức ổn định. Quân y viện phân công tôi theo dõi chăm sóc thương bệnh binh. Chị Hương được bố trí vào bộ phận quản lý hành chính, không khó khăn lắm đối với chị. Chúng tôi được sắp xếp chỗ ở tại một nhà dân. Chủ nhà dành cho chúng tôi một gian nhà ngang, ở chung với cô Ngh. cứu thương (nghe nói sau này trở thành vợ của ông Hà Kế Tấn [6]). Chị Hương và cô Ngh., hai người đều đáo để, thường hay mâu thuẫn, xung đột với nhau. Tôi mặc cho hai người cãi vã nhau. Chán mệt cũng phải thôi.
Một chuyện lạ có thật mà tôi từng chứng kiến là chủ nhà có một cô con dâu bé tý, chừng năm tuổi, đầu cạo chỉ còn lại hai bên hai chỏm tóc như trái đào, mũm mĩm như hạt mít. Không biết đám cưới cô dâu tý hon đó đã được tổ chức ra sao và từ bao giờ. Khi chúng tôi đến, hằng tối, bà mẹ chồng gọi đi ngủ, con trai suýt soát tuổi con dâu, nằm một bên, con dâu phía bên kia. Sáng dậy, cô bé cắp chiếc chổi lúa đi quét la liệt, từ nhà trên đến nhà dưới, xong xuôi cất chổi, ra sân chơi đuổi bắt với chồng, hồn nhiên vô tư, cười như nắc nẻ. Hẳn đứa trẻ chưa có thể nghĩ thế nào là vợ chồng. Đó là chuyện sắp đặt của người lớn, đã ngang nhiên quyết định số phận của chúng.
(còn tiếp)
Chú giải của N.Đ.Đ:
_________________
[1] Sau này là sử gia Nguyễn Thế Anh (1936 - 2023), giáo sư đại học, nguyên viện trưởng Viện Đại học Huế, chủ nhiệm môn sử học tại Đại học Văn khoa Sài Gòn, giáo sư sử học Đại học Sorbonne (Paris). Thân mẫu của ông là chị cả của tác giả.
[2] Vũ Đình Tụng (1895 - 1973) - bác sỹ y khoa và tín đồ Công giáo, tốt nghiệp Cao đẳng Y khoa Đông Dương, từng là Bộ trưởng Bộ Thương binh trong Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và là chủ tịch đầu tiên và lâu nhất (1946 - 1973) của Hội Chữ Thập Đỏ Việt Nam.
[3] Trợ tá giải phẫu hay phụ mổ.
[4] Ở Pháp, các cuộc thi agrégation y khoa, giành chức giáo sư agrégé y khoa, là phương thức tuyển dụng đặc biệt dành cho các giáo sư đại học hành nghề tại các bệnh viện.
[5] Nguyễn Trinh Cơ (1915-1985) - tốt nghiệp khóa thứ tư bác sĩ nội trú các bệnh viện Hà Nội cùng các tân bác sỹ Nguyễn Thúc Tùng, Phạm Biểu Tâm, Đặng Văn Chung, Hoàng Đình Cầu. Ông từng giữ các chức vụ viện trưởng Viện Phẫu thuật Trung ương, hiệu trưởng Trường Quân y sỹ Việt Bắc, tổng biên tập Tạp chí Y học Việt Nam, phó chủ tịch Hội Y học Việt Nam, chủ tịch Hội Ngoại khoa Việt Nam.
[6] Hà Kế Tấn (1912 – 1997) - ủy viên Trung ương ĐCSVN khóa IV, Tư lệnh Liên khu III, bộ trưởng Bộ Thủy lợi, chủ nhiệm Ủy ban Trị thủy và Khai thác sông Hồng, bộ trưởng đặc trách việc khởi công công trình thủy điện sông Đà.