Có Hình ⚡️"NHỚ LẠI" - Hồi ký của bác sỹ Vũ Thị Chín | GIẢI PHÓNG THỦ ĐÔ (7-8/22 chương) ✍️

NHỚ LẠI
Hồi ký của bác sỹ Vũ Thị Chín (*)
(trích VII)

(*) Bác sỹ Vũ Thị Chín sinh năm 1924, tốt nghiệp bác sỹ năm 1952 tại Đại học Y khoa Hà Nội, tốt nghiệp chuyên khoa nhi năm 1954 tại Đại học Y khoa Paris, hiện sống tại Hà nội.
*****************************************************************
Bác sỹ Vũ Thị Chín bảo vệ luận án tốt nghiệp bác sỹ tháng 5 năm 1952 (27 tuổi).  Hội đồng giám khảo gồm bốn giáo sư người Pháp và một giáo sư người Việt (từ trong ra ngoài): GS Solier, GS A. Blondel, GS P. Huard - hiệu trưởng Đại học Y khoa Hà Nội (ra ngoài chốc lát), GS A. Rivoalen - chủ nhiệm khoa truyền nhiễm, GS Phạm Biểu Tâm.  Luận án: Vũ Thị Chín, La lithiase biliaire au Nord Vietnam, Thèse pour le diplôme d’État de doctorat en médecine, Faculté de médecine, Université de Hanoi, Mai 1952 (Bệnh sỏi mật ở Bắc Việt Nam, luận văn nhận bằng bác sỹ nhà nước, Khoa Y, Đại học Hà Nội, tháng Năm 1952). Người hướng dẫn chính: GS P. Huard. Đồng hướng dẫn: GS A. Blondel


NỘI TRÚ
Công việc của sinh viên nội trú khá bận rộn. Ngoài việc bám sát chương trình học như các sinh viên khác, ở bệnh viện, mỗi sinh viên nội trú phải chịu trách nhiệm một số giường bệnh, có khi cả một phòng hoặc một khoa, giải quyết kịp thời các chấn thương, phẫu thuật các trường hợp mổ cấp cứu, mỗi ngày thăm khám bệnh nhân hai lần: khám chính buổi sáng, cho chỉ định điều trị, buổi chiều khám lại (contre visite), đêm có mặt bất kể lúc nào khi y tá và sinh viên trực gọi đến bên giường bệnh để hỗ trợ về chẩn đoán và điều trị. Ngoài ra còn xem xét lại các hồ sơ chuẩn bị cho chủ nhiệm khoa duyệt mổ, cho các buổi giao ban, và hội chẩn khoa học.
Những phiên mổ chính giáo sư Pierre Huard hoặc giáo sư Phạm Biểu Tâm là phẫu thuật viên chính, sinh viên nội trú có khi được chỉ định là phẫu thuật viên phụ, thường là khi cần có hai phẫu thuật viên phụ mổ, những trường hợp này không hiếm. Thỉnh thoảng tôi phụ mổ cho giáo sư Huard trong những ca phẫu thuật bướu cổ, hoặc viêm tuỷ xương mãn tính (ostéomyélite) hay u xương (ostéosarcome).
Bác sỹ Huard chuyên về giải phẫu học từ khi ra trường và đã thi tốt nghiệp agrégé về giải phẫu học của trường Đại học y Pháp (Agrégé d’Anatomie des Facultés de Médecine de France) từ 1940 nhằm theo đuổi công tác nghiên cứu và giảng dạy giải phẫu học ở trường đại học y. Trong ngành, chúng tôi biết ông và bác sỹ Đỗ Xuân Hợp, sau này đã cùng công tác viết nhiều công trình về hình thái và giải phẫu học của người Việt Nam, liên quan đến phong tục tập quán của họ.
Trở thành giám đốc bệnh viện Phũ Doãn và chủ nhiệm bộ môn khoa ngoại, rồi hiệu trưởng trường y, bác sỹ Huard là người có tay nghề và kinh nghiệm lâu năm nhất trong phẫu thuật và bệnh lý và xương trên người Việt Nam. Kỹ thuật của ông chính xác, gọn gàng, dứt khoát triệt để. Bác sỹ Huard đã tỉ mỉ chỉ bảo tôi mọi quy tắc phải tuân thủ khi phẫu thuật, từ khâu chải rửa tay bằng xà phòng dưới vòi nước, mặc trang phục mổ, đeo găng (gant), đưa dụng cụ đúng, nhanh, kịp thời, sử dụng từng loại dao, kéo, kẹp (pinces), ấn gạc (compresses) cầm máu, những đường mổ để tiếp cận từng loại phủ tạng thuộc từng khoang trên cơ thể (ổ bụng, lồng ngực v.v.), đến khâu lại dùng loại chỉ, vật liệu nào, đặt ống dẫn lưu drain, và khi băng lại dùng loại nào phù hợp v.v.
Tôi còn nhớ, hồi đầu mới phụ mổ, khi tôi chải tay bằng xà phòng, thấy tôi vẫn còn đeo chiếc nhẫn cưới trên ngón tay, bác sỹ Huard tế nhị bảo: “Nhẫn không tháo, chải sẽ bị mòn, nước xà phòng vào trơn, sẽ tuột mất nhẫn lúc nào không biết.” Bác sỹ Phạm Biểu Tâm khẽ nói: “Có khi còn rơi vào ổ bụng của bệnh nhân nữa ấy chứ, nếu không có găng tay.”
Từ đó, khi hành nghề, luôn phải rửa tay xà phòng, tôi không bao giờ đeo nhẫn. Đỡ không bị mất nhẫn, như mất bút máy, đồng hồ tháo ra rồi quên đeo lại.
Bác sỹ Vũ Thị Chín năm 25 - 26 tuổi (năm 1950), qua dessin của con trai Nguyễn Đình Đăng.


Những trường hợp viêm xương mãn tính dẫn tới dò xương kéo dài hàng năm, được bác sỹ Huard mổ, nạo sạch, đã khỏi, không để lại di chứng, giúp người bệnh trở lại lao động bình thường, tìm lại niềm vui trong cuộc sống. Ông ít may mắn hơn trong những ca mổ đòi hỏi sự khéo léo, nhẹ nhàng, tỉ mỉ của đôi bàn tay như bác sỹ Phạm Biểu Tâm, luôn khẽ khàng từ cả trong tiếng nói và đầy nhân hậu với bệnh nhân.
Có lần tôi phụ mổ cho giáo sư Huard trong một ca phẫu thuật bướu cổ, gây nghẹn do chìm sâu (goitre plongeant). U nhỏ thôi, nhưng sâu, bóc tách khó, phẫu thuật kéo dài gần ba tiếng chưa xong, bệnh nhân tự nhiên trụy tim mạch ngất. Hồi đó chưa đầy đủ máy móc hồi sức hiện đại. Bác sỹ Huard tiến hành ngay cấp cứu hà hơi thổi ngạt và xoa bóp tim ngoài lồng ngực. Bệnh nhân đã tỉnh lại. Cuộc mổ xẻ sau đó được tiếp tục và kết thúc. Bệnh nhân thoát chết, nhưng ba xương sườn đã bị rạn gẫy do bác sỹ Huard đã quá mạnh tay.
Vào thời kỳ đó đầu những năm 1950, do tình tình chiến sự đánh du kích vào các vùng tề giáp ranh thành phố gia tăng, hầu như đêm nào cũng có những ca cấp cứu chấn thương nhập viện. Một người trực không xuể, cả ba chúng tôi, nội trú khoa ngoại đều phải tập trung cùng nhau giải quyết. Đôi khi, trong quá trình cấp cứu phẫu thuật cho một số nạn nhân, chúng tôi phát hiện được gương mặt của một số chiến sỹ Việt Minh đã từng gặp ở hậu cứ. Chúng tôi ngầm bảo nhau tận tình cứu chữa, gọi là chút tấm lòng hướng về cuộc kháng chiến mà chúng tôi không theo đuổi được trọn vẹn. Gia đình của ba chúng tôi sau này đều là cơ sở cho cán bộ cách mạng hoạt động nội thành.
Vào ở hẳn nội trú rồi, tôi ít có điều kiện về gia đình. Anh Nam thường đến thăm tôi vào buổi trưa hoặc chiều tối, đôi khi ở lại ăn cơm với tôi. Anh đang học Đại học Khoa học (Faculté des Sciences) khoa Toán Lý, đã đạt chứng chỉ Toán học đại cương (Mathématiques générales) năm 1950 và đang chuẩn bị thi lấy chứng chỉ về vật lý (Certificat de Physique) vào tháng 6/1951. Song, hoạt động sôi nổi cuốn hút anh là các cuộc vận động bãi khóa tại giảng đường, đặc biệt ở khoa vật lý, phong trào do anh khuấy động chống giáo sư thực dân Hatem, khuếch trương tại đại học các cuộc bãi khóa của các học sinh ở các trường trung học Hà Nội, đặc biệt trong nữ sinh có trường Trưng Vương, Chu Văn An, Albert Sarraut. Đầu năm 1950, trong học sinh Hà Nội xôn xao tin anh Trần Văn Ơn, học sinh Sài Gòn bị bắt và bị địch bắn chết. Quân ủy Việt Minh nội thành bí mật lên kế hoạch làm lễ truy điệu Trần Văn Ơn. Tại chùa Quán Sứ, trong khói trầm hương nghi ngút, các đại biểu học sinh sinh viên kêu gọi mọi người đoàn kết đấu tranh, vận động trí thức, giáo viên, giáo sư yêu nước viết thư chia buồn với các gia đình các học sinh bị nạn.
Rồi anh Nam tiếp tục kể tôi nghe về những hoạt động văn hoá xã hội có tính chất yêu nước. Tại cuộc liên hoan văn nghệ học sinh toàn thành (1950), hai cô em gái Lê và Lương của anh cùng các nữ sinh trường Albert Sarraut đã tích cực dựng và diễn vở kịch Quán Thăng Long, một trong những tiết mục đáng chú ý khác như điệu múa Tiên giáng thề của nữ sinh Trưng Vương, bài ca Trường ca sông Lô của nữ sinh Chu Văn An ca ngợi chiến thắng sông Lô của quân và dân ta.
Phong trào đấu tranh của học sinh sinh viên Hà Nội đã gây được ảnh hưởng không nhỏ trong nhân dân, góp phần vào các hoạt động đấu tranh hợp pháp cũng như bí mật trong vùng tạm bị chiếm.

Bài thơ nữ thi sỹ Tương Phố (1896 - 1973), tác giả Giọt lệ thu, tặng bác sỹ Vũ Thị Chín.  Trong thời gian nằm bệnh viện Bạch Mai năm 1950, bà Tương Phố từng được bác sỹ Vũ Thị Chín, khi đó còn đang là sinh viên nội trú (interne des hôpitaux) tại hai bệnh viện Phủ Doãn và Bạch Mai, chăm sóc.  Bà đã viết tặng bác sỹ Vũ Thị Chín bài thơ này. Bài thơ được viết theo thể thơ chữ đầu (acrostic) với các chữ cái đầu dòng hợp thành họ tên Vũ Thị Chín.  Bài thơ đề ngày 12/8/1950, khi bác sỹ Chín chưa đầy 26 tuổi.  TẶNG MỘT ĐÓA DANH HOA TRONG VIỆT NAM Y GIỚI  (Bạch Mai kỷ niệm)  V Vườn y giới phương trời Bắc Việt Ũ Um tùm xanh xanh biếc cỏ hoa T Tinh anh tú, khí san hà, H Hương thơm này một đóa hoa tuyệt trần, Ị Ích cho đời, hiến thân y nghiệp C Cứu nhân gian kẻ liệt, người đau, H Huê sinh phong nhã xiết đâu, Í In làn tư tưởng lộng mầu thanh cao, N Non song rạng vẻ má đào.  Tương Phố  Tác giả Giọt lệ thu bệnh viện Bạch Mai, San A2, 12/8/1950

(...) Để tôi được xả hơi chút ít, thỉnh thoảng vào ngày chủ nhật, nếu tôi không có phiên trực, anh Nam đón tôi ra ngoài chơi phố. Bệnh viện Phủ Doãn ở giữa trung tâm thành phố. Ra khỏi bệnh viện, chỉ đi khoảng vài chục bước đã đến phố Hàng Bông. Chúng tôi thường từ Hàng Bông ngược lên Hàng Gai, dạo trên vỉa hè, dừng lại đứng xem một ông thợ truyền thần cặm cụi làm việc. Ông ngắm, nhìn kỹ tấm hình 3x4 hoặc 4x6, vẽ lại, trên khổ giấy cỡ A4, chân dung của nhân vật trong ảnh, mà gia đình đã gửi gắm vào bàn tay nghệ nhân để làm ảnh thờ của người đã khuất hoặc để lưu giữ làm kỷ niệm. Ngoài chân dung một vài cụ già, thật xót xa khi bắt gặp trên giá vẽ gương mặt sáng sủa một thanh niên mười tám đôi mươi: đó có thể là một chàng trai đã ra đi trong cuộc kháng chiến cứu nước hoặc của một tự vệ đã hy sinh trong cuộc chiến đấu bảo vệ thủ đô, để lại trong lòng người thân niềm tự hào cùng niềm tiếc thương vô hạn.
Nếu đi phố vào chiều tối, đến ngã tư hồ Hoàn Kiếm, chúng tôi đi ngang sang phố Đinh Liệt, rồi vào phố Tạ Hiền ăn lục tào xá. Khi nào có tiền kha khá, anh Nam dẫn tôi vào Mỹ Kim ăn chim quay. Chúng tôi thường thích buổi tối, lên tận phố Mã Mây ăn bánh trôi tàu, mỗi bát có hai chiếc bánh: một nhân vừng đen, một nhân đỗ xanh dừa, thơm ngon, ngọt lịm, hoặc đợi bà hàng vớt từ chiếc chảo chiên ngập dầu những chiếc bánh rán cao lâu tròn vo, rắc vừng, vỏ mỏng tang, vàng ươm, cầm lắc lên, nhận thấy nhân bánh lăn như hòn bi trong ruột bánh.
Có khi chủ nhật ban ngày, chúng tôi lên tận chợ Đồng Xuân, vào hàng bà Béo ăn bún thang, chỉ của bà mới ngon.
Mỗi phố cổ Hà Nội có đặc sản ẩm thực riêng mang thương hiệu tên phố. Tôi chưa kể đến chả cá Lã Vọng vì tôi không thích lắm và không gian ở đó quá chật. Ăn bánh tôm ở Hồ Tây để đồng thời được nhìn ra hồ, một bên là Trúc Bạch, bên kia là Tây Hồ với bao nhiêu di tích văn hoá lịch sử của thủ đô văn hiến. Giữa trời và nước bao la, bánh không ngon cũng thành ngon.
Trong thời gian nội trú ở bệnh viện, hiếm khi tôi được về thăm bố mẹ chồng và các em. Gia đình nhà tôi tuy vẫn giữ nề nếp gia phong cổ truyền: có ngôi thứ, có trưởng tộc, trưởng họ, được các thành viên trong gia đình trọng thị, song bố mẹ ít trực tiếp quan tâm tham gia vào công việc của các con, trừ mợ tôi chỉ không ngớt nhắc nhở các con cháu trời nắng thì phải đội nón mũ, trời rét quàng khăn, mặc áo ấm, đi tất, đi đường cẩn thận không thì dễ bị tai nạn v.v.
Mỗi lần về nhà 10 Crévost, sau khi chào hỏi bố mẹ chồng và các em, được bà già không quên để dành cho thứ nọ thứ kia, anh Nam đưa tôi trở lại căn phòng của chúng tôi ở tầng một, tách biệt hẳn với hai tầng trên, nơi sinh hoạt của gia đình. Tôi thu dọn nhà của cho gọn gàng, tuy khi tôi đi vắng, bà già vẫn vào làm vệ sinh, nhưng đồ đạc sách vở của anh, hay bầy bừa, u không dám động đến, sợ anh không tìm thấy thứ anh cần trong cái trật tự hỗn độn của anh. Căn phòng thoáng đãng hơn. Tại đây, vào những trưa hè yên ắng hoặc những đêm tĩnh lặng của con phố vắng chỉ còn hai chúng tôi. Khoảnh khắc tuyệt diệu của cuộc sống lứa đôi (...)
Cuối năm 1951, đầu 1952, tôi chuyển sang nội trú khoa nội tại Bệnh viện Bạch Mai. Chủ nhiệm khoa là bác sỹ Đặng Văn Chung, nội trú cũ của giáo sư Blondel. Vị giáo sư này là chủ nhiệm bộ môn bệnh lý của trường y, nay giữ cương vị cố vấn của khoa nội. Hồi đó mỗi chuyên khoa đều có một chủ nhiệm khoa người Việt và một giáo sư cố vấn người Pháp. Như khoa Tai - Mũi - Họng có bác sỹ Võ Tấn là chủ nhiệm và giáo sư Sollier là cố vấn, khoa truyền nhiễm có bác sỹ Trịnh Ngọc Phan là chủ nhiệm, giáo sư Rivoalen là cố vấn, v.v.
Phòng nội trú tại bệnh viện Bạch Mai nằm trong khu vực hành chính quản trị thuộc toà nhà chính giữa, đối diện cổng ra vào của bệnh viện.
Phòng bé, chỉ kê được một chiếc giường cá nhân, một bàn làm việc nhỏ. Ở đây không có nhân viên phục vụ riêng. Bữa ăn do cấp dưỡng bệnh viện đem đến, trên đường xe đẩy thức ăn tới các san (salle: phòng bệnh) phân phối cho bệnh nhân.

Bác sỹ Vũ Thị Chín và chồng, nhà giáo Nguyễn Đình Nam (1921 - 2009). Ảnh chụp vào khoảng năm 1950 - 1952.

Khoa nội lúc đó chủ yếu điều trị các bệnh tim mạch, thường gặp là suy tim do thấp khớp, phù dinh dưỡng (béribéri) do thiếu vitamin B1, khá phổ biến có hẳn một san, giường luôn luôn kín bệnh nhân, mặt tay chân phù nể không bước nổi. Ngoài ra còn một vài san dành cho các bệnh nội khoa khác, sốt rét ác tính, viêm và abcès (áp-xe) gan, viêm túi và ống dẫn mật, do giun đũa, sỏi mật, sỏi đường, tiết niệu, viêm thận cấp và mãn tính v.v. Nói chung các bệnh cảnh nhiệt đới đều có mặt. Chính tại các san này vào những năm 1945 - 1946, tôi đã từng chứng kiến và theo dõi những bệnh nhân bị sốt chấy rận (typhus), còn gọi là sốt hồi quy (fièvre récurrente). Khi dịch còn đang hoành hành, khoa truyền nhiễm chật cứng không còn đủ chỗ để chữa bệnh nhân. Loại trừ một số bệnh thông thường, có thể xuất viện sau vài ngày không phải thuốc men gì đáng kể cũng tự khỏi, có những trường hợp khó nan giải, phải hội chẩn đi hội chẩn lại, những bệnh mà người thầy thuốc khó quên cũng như thân chủ cũng nhớ mãi người thầy.
Tôi học được ở bác sỹ Đặng Văn Chung tác phong ôn hoà gần gũi bệnh nhân, sự tỷ mỷ, tinh tế tôn trọng người bệnh đi đôi với tính nghiêm túc thực hiện các quy trình kỹ thuật thăm khám lâm sàng. Những yêu cầu thăm khám chuyên khoa và xét nghiệm cận lâm sàng cần thiết sự khiêm tốn và tinh thần thực sự cầu thị trong hội chẩn. Ông còn chịu khó lắng nghe người bệnh không chỉ về bệnh tình của mình, mà cả những thổ lộ tâm tư về hoàn cảnh riêng tư, về môi trường mình sống, thậm chí của cả xóm giềng, hàng phố mình đang trú ngự nữa. Mỗi bệnh nhân là một mảnh đời, một câu chuyện cần được gỡ rối mới giúp cho bệnh mau khỏi. Khác với ngoại khoa, nội khoa gặp không ít bệnh lý tâm-thể. Đối với những ca phức tạp, chỉ khi có đầy đủ thông tin và hội chẩn cần biết, bác sỹ Chung mới thận trọng đưa ra kết luận chẩn đoán, thường chính xác, dẫn tới phương hướng điều trị xác đáng. Trong những trường hợp vẫn xảy ra tử vong, chẩn đoán và điều trị được đánh giá, thẩm định kiểm tra bằng kết quả xét nghiệm mổ tử thi. Những cuộc bệnh lý giải phẫu này thường được sinh viên nội trú, trực tiếp theo dõi bệnh nhân, tiến hành dưới sự giám sát của chủ nhiệm khoa, đôi khi giáo sư Blondel cũng dự. Có những cuộc mổ tử thi lấy mẫu bệnh phẩm để xét nghiệm bệnh lý giải phẫu phải thực hiện ban đêm, chỉ có sinh viên nội trú cùng một sinh viên trực làm, sau đó sắp xếp phủ tạng y chang và khâu kín, mặc quần áo tử tế lại cho tử thi, tránh gây thương tâm, stress cho gia đình buổi sáng hôm sau đến làm thủ tục mai táng. Đôi khi có người trong gia đình hoàn toàn không vừa ý đã chửi rủa, mắng mỏ như tát nước. Ráng mà chịu.
Những cuộc bệnh lý giải phẫu đó là những bài học vô cùng quý giá, cho nhìn thấy, sờ nắn thấy những tổn thương chỉ biểu hiện bằng triệu chứng trên người bệnh còn sống, giúp xác định lại chẩn đoán, nâng cao chất lượng tiên đoán và điều trị.

Hotel Le Petit Belloy, số 1 phố Racine, phường Saint-Germain-des-Pré và Luxembourg, quận 6, Paris - nơi bác sỹ Vũ Thị Chín và chồng, Nguyễn Đình Nam, đã sống trong thời gian du học ở Pháp (1952 - 1954).

TỐT NGHIỆP BÁC SỸ Y KHOA
Về cuối thời kỳ nội trú ở khoa nội, tôi tập trung vào viết luận án tốt nghiệp, đã được chuẩn bị từ lúc còn ở khoa ngoại, về đề tài “Bệnh sỏi mật ở miền Bắc Việt Nam”.
Thư viện bệnh viện Phủ Doãn là một kho tư liệu phong phú lưu trữ nhiều bệnh án về bệnh gan và mật. Một số do chính bác sỹ Tôn Thất Tùng viết từ thời còn là sinh viên nội trú tại đây. Tôi đã đọc, tham khảo, đối chiếu với những thực tế lâm sàng trên các bệnh nhân của tôi. Tôi tiếp tục nghiên cứu, bổ sung thêm tư liệu tại bệnh viện Bạch Mai. Ở đây, tôi có điều kiện mổ tử thi, lấy bệnh phẩm làm xét nghiệm. Thời gian rỗi, tôi xuống phòng xét nghiệm do bác sỹ Vũ Công Hòe làm chủ nhiệm, cung cấp những thông tin lâm sàng và trên mổ tử thi để cùng đọc và phân tích kết quả. Tôi đã chụp được ảnh của những viên sỏi mật kích cỡ khác nhau, có tố chất không giống nhau, có khi lèn chặt cả lòng túi mật, phát hiện ra tính đa dạng của bệnh viêm gan, túi mật và ống dẫn mật, nhiều khi kết hợp với giun chui ống mật, trên một số bệnh nhân đến từ các vùng nông thôn.
Tập trung viết luận án, tôi thuê người đến nhà đánh máy. Trên tầng tum vào những ngày hè nóng bức, tôi ngồi kèm ông thợ đánh máy. Ông cẩn thận, có tay nghề, song đâu có biết những từ kỹ thuật, chuyên môn nên đôi khi phải đánh vần cho ông gõ từng chữ. Những ngày tôi bận trực, anh Nam thay tôi làm công việc vất vả và chán ngắt đó đối với người “ngoại đạo”
Sau hơn một tháng đánh máy ròng rã xong bản luận án bằng tiếng Pháp, dày 320 trang, dán những ảnh minh hoạ, đóng bìa cứng, nộp để được thông qua, rồi sửa theo sự góp ý của hội đồng chấm thi, tôi chờ ngày bảo vệ luận án và làm lễ tốt nghiệp với một số bạn cùng khóa.
Một chi tiết làm tôi nhớ mãi ngày đó: Vào thời điểm long trọng trang nghiêm, lúc tuyên thệ, đọc lời thề Hippocrate, tôi không sao nhịn được cười, khi một bạn đồng môn đã giơ cả hai tay lên tuyên thệ như người mất trí. Ông thợ ảnh quái ác đã bấm ngay một pô ảnh ghi lại sự kiện không bao giờ quên đó.
Thế là cả nhóm chúng tôi, khoảng 5 - 6 người, đã tốt nghiệp y khoa bác sỹ khóa tháng 5/1952 [1].
Sau tốt nghiệp, trường dự kiến xin cấp học bổng cho tôi sang Pháp tu nghiệp về nhi khoa.
Thời gian học nội trú và chuẩn bị luận án bác sỹ, tôi đã dồn hết tâm trí vào học tập, không quan tâm nhiều tới thời cuộc và tình hình chính trị xã hội. Anh Nam và mấy cô em gái trái lại rất hăng say với phong trào sinh viên học sinh phản kháng chính quyền thực dân, ủng hộ Việt Minh. Sau vụ truy điệu Trần Văn Ơn và liên hoan văn nghệ học sinh toàn thành, thực dân Pháp tìm mọi cách phá phong trào thanh niên học sinh, khủng bố gắt gao, bắt bỏ tù một số đoàn viên kháng chiến, buộc gia đình phải bảo lãnh, ngăn cấm con hoạt động kháng chiến chúng mới thả ra. Một số đoàn viên được tổ chức đưa ra vùng tự do trong đó có Lê, em gái anh Nam, chuẩn bị lực lượng chờ thời cơ chủ động đánh địch, trong khi chúng có âm mưu mới. Cô Đồng cũng ra với chồng đang ở vùng kháng chiến.
Dưới sự thúc ép của Mỹ và Pháp, chính quyền bù nhìn lập ra quân đội quốc gia. Sau khi Bảo Đại ký đạo dụ “tổng động viên” ngày 15/7/1951, địch huy động học sinh sinh viên đi học các trường sỹ quan Đà Lạt, Nam Định, tăng cường bắt lính, thậm chí đến tận nhà bắt đi không báo trước. Thông thường các gia đình chạy tiền để con em khỏi phải đi lính, cho con lẩn tránh hết đợt động viên lại về, hoặc ra hậu phương. Anh Nam biết mình cũng đang ở trong tầm ngắm, do tham gia tổ chức bãi khoá ở trường đại học, có người em cầm đầu nhóm nữ sinh Albert Sarraut kháng chiến, đã ra vùng tự do. Bản thân tôi cũng đã có lần bị sở Liêm Phóng gọi ra hỏi tại sao lại viết thư kể tin này nọ cho vài người bạn ở bên Pháp. Lúc đó tôi đang nội trú ở Bệnh viện Phủ Doãn. Chẳng có lý do, căn cứ gì cụ thể để buộc tội và giam giữ, và cũng do phong trào đấu tranh mạnh mẽ đòi thủ hiến chính quyền Hà Nội tạm bị chiếm thả những người bị bỏ tù vô căn cứ, bọn mật thám đành thả tôi về bệnh viện. Có lẽ tôi chẳng phải là một đối tượng gì ghê gớm. Chúng gọi tôi đến xét hỏi, hẳn chỉ là răn đe.
Trước các cuộc bắt lính ngày càng nhiều và mở rộng, anh Nam, đang học Đại học khoa học (khoa Toán-Lý-Hoá), quyết định sang Pháp du học. Quyết định đó được bố chồng tôi ủng hộ: Ông muốn tránh cho anh những cuộc vây ráp bắt đi lính, và cũng muốn anh làm xong bằng cử nhân khoa học. Đó là vào mùa thu 1952, tôi vừa tốt nghiệp bác sỹ được khoảng ba tháng.
Anh Nam tới Paris vào đầu tháng 9/1952, và báo tin cho tôi biết đã đăng ký được vào học khoa Toán Cơ (Mécanique Rationnelle) trường Sorbonne, Đại học đường Paris tháng 10/1952.

Đầu phố Racine, tiếp giáp boulevard Saint-Michel. Hotel Le Petit Belloy, 1 phố Racine, nằm cạnh hiệu sách Gibert Joseph. See less

BỆNH VIỆN ĐẶNG VŨ LẠC - ĐI PHÁP HỌC CHUYÊN KHOA NHI
Ở Hà Nội tôi đang chờ trường y cho biết trả lời của Đại học Y khoa Paris về việc tiếp nhận tôi vào học chuyên khoa nhi. Trong khi chờ, tôi làm việc cho bệnh viện Đặng Vũ Lạc, khi đó là một bệnh viện tư đa khoa, thuộc loại có quy mô, tổ chức và trang thiết bị tốt nhất Hà Nội (sau là Bệnh viện B Hà Nội, rồi Việt Nam - Cuba, và nay là Bệnh viện tim Hà Nội, ở số 92 phố Trần Hưng Đạo). Uy tín của bệnh viện có được từ thời bác sỹ Đặng Vũ Lạc sáng lập, dựa vào danh tiếng, kinh nghiệm, chất lượng chẩn trị của những bác sĩ, giáo sư đầu ngành được mời tới đây làm việc ngoài giờ, như bác sỹ Đặng Văn Chung, Phạm Khắc Quảng, Đinh Văn Thắng v.v. Bệnh viện do bà quả phụ Đặng Vũ Lạc - nữ hộ sinh kỳ cựu, và con gái bác sỹ Đặng Vũ Lạc - chị Đặng Thị Ánh, học sinh cũ trường Sarraut, điều hành. Từ 1953 - 1954, trong ban quản trị có thêm bác sỹ Phạm Văn Diễn làm giám đốc bệnh viện.
Đội ngũ y tá, các khoa phòng, xét nghiệm viên, công nhân đều được tuyển chọn kỹ lưỡng. Các bác sỹ hành nghề ở đây được trả thù lao theo thỏa thuận, hưởng lương tháng cố định hoặc theo số lượng bệnh nhân tới khám, xét nghiệm chuyên khoa hoặc theo hạng mục can thiệp phẫu thuật (thường mổ đẻ, đặt forceps).
Tôi có một phòng khám riêng ở đây, làm việc ngày hai buổi (vì không làm ở bệnh viện công) và hưởng lương tháng. Tuy tôi mới ra trường, nhưng nhanh chóng số bệnh nhân đến với tôi, chủ yếu là phụ nữ với trẻ em, cũng đủ cho tôi làm từ sáng tới chiều. Nhà ở tôi ở phố Crevost, gần bệnh viện [2], nhưng hàng ngày có ô tô bệnh viện đưa đón tôi đi làm [3].
Trong ba tháng làm việc ở bệnh viện Đặng Vũ Lạc, tôi đã dành đủ tiền mua vé máy bay và chi phí ban đầu để sang Pháp. Giữa tháng 10/1952 trường y Hà Nội thông báo tôi đã được Đại học Y khoa Paris chấp nhận vào học, lấy chứng chỉ về nhi và dưỡng nhi tại trường dưỡng nhi với sự đồng thuận của giáo sư Marcel Lelong, hiệu trưởng. Thông báo yêu cầu tôi phải có mặt trước ngày 15/11/52 để làm thủ tục tựu trường.
Tôi gấp rút chuẩn bị hành trang lên đường. Mẹ chồng tôi băn khoăn sao tôi không mang theo chăn bông “vì bên Tây lạnh lắm”. Tôi phải trấn an: “Mợ yên tâm, anh Nam biên thư về đã lo đủ cả rồi”.
Đưa tôi ra sân bay có anh Trịnh Văn Du, bạn anh Nam, chủ một hiệu sách ở phố Tràng Thi, nghe nói là cơ sở hoạt động của cán bộ nội thành.
Tôi tới Paris ngày 4/11/1952. Anh Nam ra đón tôi tại sân bay Orly và đưa tôi về khách sạn 1 phố Racine, nơi anh đã thuê một phòng nhỏ làm nơi trú ngụ của hai chúng tôi trong suốt thời gian ở Pháp.
(Còn tiếp)
Chú giải của N.Đ.Đ.
_________________
[1] Hai người trong khóa này, Vũ Thị Chín và Nghiêm Thị Thuần, là hai phụ nữ Việt Nam đầu tiền tốt nghiệp bác sỹ tại Đại học Y khoa Hà Nội. Hai năm sau đó, bác sỹ Nghiêm Thị Thuần đã di cư vào Nam (năm 1954), rồi từ miền Nam Việt Nam sang Canada, nơi bà qua đời vào năm 2020 ở tuồi 97.
[2] Nhà số 10 phố Crévost (số 10 phố Thiền Quang ngày nay) cách bệnh viện Đặng Vũ Lạc (bệnh viện Tim ngày nay, ở 92 Trần Hưng Đạo) 550 m. Đi bộ từ nhà tới bệnh viện, dọc theo phố Yết Kiêu, mất 7 phút.
[3] Theo lời GS Trần Kim Đan, cháu ngoại bác sỹ Đặng Vũ Lạc, đó là một chiếc xe ô-tô Peugeot màu đen.

--------------------
 
NHỚ LẠI
Hồi ký của bác sỹ Vũ Thị Chín (*)
(trích VIII)

(*) Bác sỹ Vũ Thị Chín sinh năm 1924, tốt nghiệp bác sỹ năm 1952 tại Đại học Y khoa Hà Nội, tốt nghiệp chuyên khoa nhi năm 1954 tại Đại học Y khoa Paris, hiện sống tại Hà nội.
*****************************************************************

Bác sỹ Vũ Thị Chín giữa các đồng nghiệp tham dự hội thảo bệnh trẻ em tại Paris năm 1953.

ĐI DU HỌC PARIS 1952 - 1954
Học tập
_______
Từ cuối 1952 đến đầu 1954 tập trung học chuyên khoa. Từ nội sang nhi có những mặt thuận lợi.
Trường dưỡng nhi (École de Puériculture) thuộc Đại Học Y khoa Paris là một tổ chức do quỹ hợp tác Pháp-Mỹ sáng lập (Fondation Franco-Américaine) nhằm đào tạo bổ túc trên đại học về lý thuyết và thực hành nhi khoa và dưỡng nhi cho các bác sỹ phục vụ màng lưới các trung tâm bảo vệ bà mẹ và trẻ em, hoặc muốn đi sâu tiếp trong nghiên cứu chăm sóc lứa tuổi hài nhi từ sơ sinh.
Cơ sở của trường là một tòa nhà đẹp bằng gạch xây để trần, giữ nguyên màu đỏ hồng, không sơn phết bên ngoài, tọa lạc trên Đại lộ Brune quận XIV Paris, được trang thiết bị hiện đại đáp ứng công tác giảng dạy, nghiên cứu những vấn đề mũi nhọn đương thời liên quan đến sức khoẻ bệnh tật của sơ sinh và hài nhi. Đặc biệt có hẳn một đơn vị sơ sinh do bác sỹ P. Mozziconacci [1] phụ trách và một phòng nghiên cứu xét nghiệm về di truyền học (đối với các bệnh bẩm sinh).
Thời khóa biểu các buổi chiều dành cho các giảng viên là những giáo sư, bác sỹ có tên tuổi, chuyên gia trong lĩnh vực, đến từ một số bệnh viện nhi có hạng thuộc thành phố Paris, như Hôpital des Enfants Malades (giám đốc là giáo sư R. Debré [2]), Hôpital Saint-Vincent-de-Paul (giám đốc là giáo sư M. Lelong [3]).
Các buổi sáng học viên đến thực tập ở Bệnh viện Dưỡng nhi (Clinique de Puériculture) Saint-Vincent-de-Paul do GS Marcel Lelong làm giám đốc. Dự các buổi hướng dẫn thăm khám lâm sàng trên các trẻ bé, nghe giới thiệu và thảo luận bệnh án do GS R. Joseph, hoặc các trợ lý bệnh viện (assistant des hôpitaux) của ông chủ trì.
Khi bắt đầu chuẩn bị thi assistant étranger (trợ lý nước ngoài) của Đại học y, thực chất là trợ lý cho Liên bang Đông Dương của Pháp (Assistant de l’Union Française), tôi thường xuyên thực tập ở khoa nhi của bác sỹ J. Vialatte, trợ lý của GS Joseph, sau này ông cũng trở thành giáo sư. Khoa của ông nằm trong khuôn viên Bệnh viện Saint- Vicent-de-Paul.
Trừ những buổi tới dự hướng dẫn của GS Joseph và thảo luận bệnh án, hàng ngày tôi rời hotel 1 Racine vào 7 giờ rưỡi sáng, ra phố Saint Michel, đợi bắt xe bus số 36, đi ngang trước vườn hoa Luxembourg, tới bệnh viện Saint -Vincent-de-Paul vào khoảng 8 giờ 30, lên khoa thay quần áo, vào phòng bệnh trước 9 giờ.
Buồng bệnh có khoảng 20 giường, được kê thành hai dãy, với một lối đi ở giữa cho nhân viên đi lại và đẩy xe dụng cụ, thức ăn đến cho bệnh nhi. Giường trẻ em là những giường bằng thép không rỉ (inox), có khung then, thành cao, có thể gập xuống một mặt, được đặt trong từng ngăn nhỏ diện tích khoảng 1.5m2, có vách kính bao xung quanh, chỉ để hở phía trên, và cửa lùa bằng kính ở một phía ra vào. Các giường liền kề chỉ cách nhau một vách kính trong suốt. Với bố cục như trên, các bệnh nhi có thể nhìn thấy nhau và quan sát được mọi hiện tượng quanh chúng. Đồng thời nhân viên cũng có thể từ bất cứ điểm nào trong phòng bệnh quan sát được toàn phòng và từng bệnh nhi, kịp thời ứng cứu khi cần.
Sáng đến, trước khi bắt tay vào công việc, tôi thường đi một lượt chào buổi sáng các “thiên thần bé nhỏ” của tôi. Các cháu tương đối khoẻ, ngồi được dậy, giơ tay vẫy chào vui vẻ. Sau một thời gian đầu lạ lẫm, chúng thích thú thốt lên: “Ô! Cô mũi tẹt, tóc đen đã đến!” Cái mũi to bè bẹt dí của tôi so với các sống mũi cao, đầu nhọn ở những người của chúng, luôn làm chúng ngạc nhiên.
Khoa này điều trị cho những đứa trẻ bị lao sơ nhiễm đang tiến triển, hoặc các thể lao nặng hơn trong đó có lao màng não, đặc biệt nguy hiểm đối với trẻ dưới ba tuổi. Đó thường là con của những bố mẹ bị lao, không người chăm sóc. Bố mẹ phải cách ly. Bệnh phải chữa lâu dài. Bệnh viện trở thành vừa là nhà trẻ (pouponnière), vừa là cơ sở điều trị, rất thuận tiện cho tôi thực hành dưỡng nhi và chữa chạy các bệnh nhi trong tình trạng cấp cứu và mãn tính.

Trường Dưỡng nhi thuộc Đại học Y khoa Paris (École Puériculture de la Faculté de Médecine de Paris), 26 Boulevard Brune, Paris 14.

Hồi đó mới có một số thuốc chữa lao, bây giờ ít dùng. Sử dụng streptomycine điều trị lâu dài cho trẻ lao chưa đủ thời gian để đánh giá kết quả. Đưa streptomycine vào nội tủy (intrarachidien, viết tắt IR) trong điều trị lao màng não trẻ em còn đang được theo dõi, còn tranh cãi. Ngày nay thì đã rõ phương pháp này đã bị loại.
Đề tài luận án assistant của tôi thận trọng mang tên “Suy xét về điều trị 51 trường hợp lao màng não trẻ em và những kết quả đã đạt được” (Considérations sur le traitement de 51 méningites tuberculeuses chez l’enfant et les résultats obtenus)
Công việc của tôi buổi sáng là khi y tá phòng đẩy xe dụng cụ đến, rồi cố định trẻ ngồi ở tư thế cong lưng tôm về phía tôi ở rìa giường, tôi chọc kim vào đúng chỗ trên lưng cột sống của trẻ với một chiếc kim riêng, hứng nước não tủy vừa đủ yêu cầu xét nghiệm kiểm tra, rồi bơm vào một khối lượng dung dịch streptomycine đúng chỉ định điều trị, khối lượng dung dịch bơm vào tương đương bằng khối lượng nước não tuỷ rút ra. Kỹ thuật đòi hỏi phải chính xác, nhanh gọn, kim tiêm sắc bén, tránh làm trẻ sợ và đau. Lúc đầu cũng run tay, nhưng sau vài lần, tôi thực hiện thành thạo, chỉ chọc kim một lần là trúng ngay. Mỗi bệnh nhi chỉ phải tiêm IR mỗi tuần 2 lần, song ngày nào cũng có khoảng 4 trẻ phải chọc lấy nước não tuỷ và tiêm streptomycine IR. Thủ thuật thực hiện trong một giờ là hoàn tất kể từ khi đưa trẻ ra và cho cả 4 bệnh nhi về giường. Sau đó, tôi giúp các cô y tá dưỡng nhi làm vệ sinh cho trẻ, quấn tã lót, sau khi tập thể dục xoa bóp cho trẻ. Nói đúng hơn là tôi đã học ở các cô tất cả những kỹ năng thuần thục mà các cô lành nghề thực hiện rất nhuần nhuyễn. Hài lòng vì tay nghề chọc IR của tôi, các cô thiện chí hướng dẫn và sửa những động tác chưa khéo léo của tôi trong chăm sóc những trẻ bé. Rồi đến cho trẻ ăn, đối với trẻ ăn sữa, bú bình, bế trẻ thế nào, cầm bình sữa, đút núm vú vào miệng trẻ ra sao. Đối với trẻ ăn bột, cách xử trí ứng cứu khi trẻ bị sặc bột. Đối với trẻ bị lao màng não nặng, không tự ăn được, phải cho ăn bằng xông cao su (sonde), cách đưa ống xông qua mũi vào dạ dày, kiểm tra ống đã vào đúng bao tử trước khi bơm sữa vào thế nào. Tất cả các chi tiết tỉ mỉ đó đều phải được hướng dẫn và thực hành.
Được đào tạo rồi, người thầy thuốc cũng như y tá phải biết kiên nhẫn và thực sự có tấm lòng như một người mẹ, và đứa trẻ càng bé càng phải làm sao cho trẻ cảm nhận được tình cảm đó bằng một sự tương tác có đi có lại (người ta gọi là feedback) qua tất cả mọi kênh cảm giác (thị, thính, vị, khứu và xúc giác) giữa trẻ và người chăm chữa. Có như thế trẻ mới chịu hợp tác, và cảm thấy dễ chịu. Như thế đã có thể đạt được phân nửa trong điều trị.
 
Trường Dưỡng nhi Paris ngày nay

Công trình nghiên cứu của tôi đã đóng góp cho khoa có thêm nhận xét về điều trị lao màng não bằng streptomycine. Sau khi đạt chứng chỉ tốt nghiệp về nhi khoa và dưỡng nhi (ngày 14/6/1953) và bảo vệ thành công luận án “Considérations sur le traitament de 51 méningites tuberculenses chez l’enfant et les résultats obtenus”, với xác nhận thời gian thực tập tại khoa nhi tại Bệnh viện của ông từ ngày 5/11/1952 và luận án đã hoàn thành dưới sự chỉ đạo của ông, ngày 22/12/1953 GS M. Lelong đã chấp nhận đề nghị cấp cho tôi học vị Trợ lý nước ngoài của Trường Đại học y Paris. Bằng tốt nghiệp học vị này đã được ký trao cho tôi ngày 14/1/1954.
Ngoài thời gian học chính quy, GS Lelong còn tạo điều kiện cho tôi được tham gia ở trung tâm Quốc tế trẻ em Paris (Centre International de l’Enfant CIE):
- Lớp tập huấn một tháng đầu năm 1953 về phòng lao cho trẻ em (Prévention de la tuberculose chez l’enfant)
- Câu lạc bộ bàn thảo về các vấn đề chu sinh (Cercle d’études sur les problèmes périnataux) cuối năm 1953.
Trong đợt tập huấn về Phòng lao cho trẻ em, tôi có dịp đi thăm Viện Pasteur sản xuất vaccin BCG (vắc-xin phòng lao cho trẻ em) ở thành phố Lille, thăm quan các préventorium (nhà phòng bệnh lao) cho những trẻ bị sơ nhiễm lao và các cơ sở chăm nuôi trẻ tại gia đình, nhận con em của những bố mẹ lao phải cách ly con cái. Những trường hợp lao màng não trẻ em tôi theo dõi ở bệnh viện đã không được tiêm uống vắc xin BCG phòng lao và đã không được cách ly khỏi nguồn lây lao phần nhiều từ trong gia đình.
Ngoài các tuần đi kiến tập đó, hàng ngày tôi đến dự hội thảo ở CIE bằng métro và bus: đi tàu điện ngầm từ Odéon đến quảng trường Ngôi Sao (Place de l’Étoile), gần Đại lộ Champs Elysées, bắt xe bus từ đó, qua rừng Boulogne (Bois de Boulogne) nơi còn vang bóng xưa xe ngựa và dập dìu tài tử giai nhân dưới thời các vua Louis và Hoàng đế Napoléon, rồi tới trụ sở của CIE thấp thoáng dưới những hàng cây. Tại đây có một thư viện phong phú với nhiều sách, tài liệu, thư mục của Pháp và quốc tế thuộc lĩnh vực trẻ em. Tôi đã tích cực tham khảo để viết luận án. Tôi còn khai thác được nhiều tư liệu sống từ các đồng nghiệp về nhi khoa đến từ nhiều nước trên thế giới và đều nói được tiếng Pháp hoặc thông thạo Anh văn.
Anh Nam bận không kém tôi. Ngoài học toán cơ (Mécanique Rationnelle) ở Đại học Sorbonne, anh còn học thêm ngoại ngữ, đăng ký học cao đẳng Anh văn, theo học lớp ngữ âm và dạy ngữ âm tại viện Ngữ âm Sorbonne, lớp dịch song ngữ Pháp-Anh và Anh-Pháp. Anh tốt nghiệp cao đẳng Anh văn (Section Litéraire et Pédagogique, tức Ban Văn học và Sư phạm) tháng 7/1953, và cử nhân khoa học (Licencié es Sciences) [5] khoa Toán Lý tháng 7/1954.
Cuộc sống sinh viên của chúng tôi ở Pháp

Đại học Y khoa Paris (La Faculté de Médecine de Paris), 12 rue de l'École de Médecine, Quartier latin, 75006 Paris.

____________________________________
Với chương trình học như trên, hai chúng tôi người nào cũng chỉ có thể lo việc học tập của người ấy. Gặp nhau ngắn ngủi vào bữa ăn trưa ở Foyer des Mines, xếp hàng lấy thức ăn, chúng tôi chỉ nói với nhau được dăm ba câu, không muốn làm ồn thêm trong phòng ăn chật ních sinh viên và ăn nhanh vì thời gian nghỉ ăn trưa rất ngắn.
Đi cả ngày đến tối mới trở về căn phòng 1 phố Racine, chúng tôi bằng lòng với nơi trú ngụ của chúng tôi. Phòng cá nhân cho một người nhưng tạm đủ cho hai người, giường có thể kéo rộng thêm ra một chút. Khéo lo thì no, khéo co thì ấm. Hotel có ưu điểm là gần Sorbonne, và chỗ ăn, điểm đỗ xe bus và métro không xa, nhà tắm công cộng đi dăm mười phút đã đến, quần áo muốn đưa giặt, hiệu giặt ở ngay gần đó, chỉ giặt thôi không đắt, lấy về còn ẩm thì vắt phơi khô trên hệ thống sấy (chauffage central).
Ăn ở Foyer des Mines vừa túi tiền cho sinh viên ít tiền vì được quỹ phúc lợi xã hội hỗ trợ. Khi tôi có thai, tôi được chuyển sang nhà ăn dành cho các bà mẹ mang thai có chế độ ăn riêng, thêm sữa và hoa quả. Ốm đau có bảo hiểm y tế, khám bệnh miễn phí, mua thuốc có vignette (ký hiệu miễn phí) không phải trả tiền. Phúc lợi xã hội đối với sinh viên như thế là quá ưu việt. Nếu thực hiện không đầy đủ, không công bằng, sinh viên biểu tình đấu tranh đòi thực hiện theo luật định.
Công việc học tập, đi lại, dù phương tiện giao thông thuận lợi, cũng chiếm cả thời gian trong ngày. Những buổi tối không phải tham khảo thêm, chúng tôi tranh thủ đi bát phố. Chủ nhật thường đi công viên, đi tham quan các bảo tàng, cung điện, nhà thờ, các phố cổ, những công trình kiến trúc hiện đại. Như nhiều thành phố cổ khác ở châu Âu và trên thế giới, có một bề dày lịch sử lâu đời, Paris không còn bó hẹp trong không gian thành nội với vòng đai lớp lớp các thành lũy và pháo đài, với những nhà thờ, lâu đài, cung điện, công viên, nhà tắm công cộng (thermes) và đấu trường (arènes) đa phần đã lùi vào dĩ vãng, một số còn lại mang dấu tích của thời hưng trị La Mã và Normand đã chiếm đóng đảo Lutèce xưa của người Gaulois, nay là đảo Île de la Cité, để rồi phát triển mở rộng thành phố, chủ yếu ở tả ngạn sông Seine. Song, ngay từ thời Phục Hưng (Renaissance), Paris cũng đã bức bối trong khuôn viên cũ, những đường phố nhỏ hẹp, những ngôi nhà cũ kỹ thiếu tiện nghi, đẩy những người khá giả ra ngoại thành tìm nơi thông thoáng hơn. Đương đầu với sự chuyên chế của vua, lãnh đạo thành phố quyết định mở rộng thành phố sang hữu ngạn sông Seine với việc xây dựng toà thị chính (Hôtel de Ville) cùng một vòng đai mới bên bờ phải sông Seine. Vào giữa thế kỷ 20 lại nổ ra một cuộc tranh luận sôi nổi trong cải tạo và mở rộng thành phố, giữa bảo tồn các di sản và hiện đại hoá các công trình xây dựng: phe bảo thủ muốn giữ cảnh quan truyền thống và vốn cổ những di sản văn hoá lịch sử. Lãnh đạo thành phố ủng hộ những ý tưởng sáng tạo, táo bạo của các kiến trúc sư danh tiếng tầm cỡ thế giới, các nhà kiến thiết đô thị, Paris đã tìm được thế ổn định và cân bằng bảo vệ các di sản văn hóa lịch sử của Île de la Cité và tả ngạn sông Seine. Việc cải tạo xây dựng mới phù hợp với sự phát triển đương đại ở những khu vực nhà cửa đã xuống cấp, ở những nơi quỹ đất chưa khai thác hết, tại các buttes (ụ, mô đất, gò, đồi), như đồi Montmartre (buttes Montmartre), đồi Chaumont (buttes Chaumont), đã được tiến hành song song với việc mạnh tay mở rộng ở hữu ngạn sông Seine, với những công trình đa dạng, đa chức năng.

Bệnh viện Saint-Vincent-de-Paul, 74 avenue Denfert-Rochereau, quartier du Montparnasse, quận 14, Paris.

Do trú ngụ ở phố Racine, trong lòng khu phố Latin (Quartier Latin), chúng tôi quen thuộc với Paris cổ ở bờ trái hơn là với các địa điểm khác của thành phố.
Khu này vừa thuộc quận V có đền Panthéon, vừa thuộc quận VI có vườn Luxembourg, hàng ngày tôi vẫn đi qua trước khi tới bệnh viện. Từ thế kỷ XII, nơi đây đã trở thành một trung tâm giáo dục với các trường đại học lớn như Sorbonne, Y, Dược , Luật, trường Nghiên cứu Nâng cao Hải ngoại (École des Hautes Études d’Outre Mer), Bảo tàng Sư phạm (Musée Pédagogique), Bảo tàng Cluny [6], Viện Nông học (Institut Agréonomique), Trường Mỏ. Phía Bắc khu này còn là địa bàn của Trường cao đẳng Pháp (Collège de France) và của một số trường trung học lâu đời nổi tiếng như Henri IV, Montaigne, Saint Louis, Louis le Grand. Trường Mỏ có thời kỳ đã lấn sang đường ranh giới của vườn Luxembourg. Vườn Luxembourg ở phía nam đài phun nước Fontaine de Médicis mang tên Hoàng Thái hậu Marie de Médicis, nhiếp chính cho vua Louis VIII. Marie de Médicis đã cho xây dựng điện Luxembourg (Palais du Luxembourg), sau này trở thành trụ sở của Thượng nghị viện Pháp.
Điện Panthéon trên đồi Saint Genevière là nơi đặt mộ của nhiều vĩ nhân: Voltaire, Victor Hugo, Carnot, Berthelot, Emile Zola, Jaurès, Perrin, Langevin v.v.
Giữa vườn Luxembourg và điện Panthéon, hàng ngày đường phố Soufflot đổ vào đây lớp lớp những sinh viên đủ các màu da, và sắc tộc. Họ tấp nập vào các trường của Quartier Latin. Đến giờ nghỉ ăn trưa họ lại vội vã vào các quán ăn sinh viên kiểu như Foyer des Mines. Đến mùa thi, họ thường tản ra ngồi trên các thảm cỏ xanh của vườn hoa Luxembourg để ôn bài hoặc đàm đạo.
Chăm sóc các công viên, ngoài vườn Luxembourg, Paris còn giữ gìn được nhiều vườn đẹp kiểu vườn thượng uyển như những vườn Jardins des Champs Elysées, vườn Bách thảo (Jardin des Plants) nay đã trở thành một thảo cầm viên, với một bảo tàng vạn vật học (Musée d’Histoire Naturelle), thậm chí cả những khu rừng nổi tiếng như bois de Boulogne và bois de Vincennes.
(Còn tiếp)
Chú giải của N.Đ.Đ.:
__________________
[1] Pierre Mozziconacci (1911 - 1999) - bác sỹ nhi khoa người Pháp, giáo sư nhi khoa lâm sàng, viện sỹ hàn lâm y học (l’Académie de Médecine).
[2] Robert Debré (1882 - 1978) - bác sỹ nhi khoa người Pháp, viện sỹ hàn lâm y học.
[3] Marcel Lelong (1892 - 1973) - bác sỹ nhi khoa người Pháp, giáo sư dưỡng nhi tại Đại học Y khoa Paris (chức danh được thiết lập năm 1945 dành cho ông), viện sỹ hàn lâm y học, huân chương Bắc đẩu Bội tinh. Các nghiên cứu của ông đã chứng minh được rằng bệnh lao không phải do di truyền và việc tiêm chủng BCG có hiệu quả ở trẻ sơ sinh. Ông đã biến Nhà tế bần dành cho Trẻ em được Hỗ trợ (Hospice des Enfants-Assistés) ở Paris (quận 14) thành một bệnh viện hiện đại, bệnh viện Saint-Vincent-de-Paul.
[4] Assistant là trợ lý hay trợ giảng. Có người dịch là giáo sư dự khuyết, tiếng Anh là assistant professor.
[5] Ở ta không có sự phân biệt giữa Licencié và Bachelor, do đó cả hai bằng này đều được dịch là Cử nhân. Trong hệ thống đào tạo của Pháp, Licencié là học vị đầu tiên trong giáo dục đại học, chủ yếu dành cho những người muốn theo đuổi sự nghiệp khoa bảng, trong khi Bachelor là học vị được các công ty ưa chuộng khi tuyển nhân viên chuyên nghiệp.
[6] Musée de Cluny - bảo tàng thời Trung Cổ, ở quận 5, Paris.


Nguồn "Nguyễn Đình Đăng" https://nguyendinhdang.wordpress.com/2024/01/05/nho-lai/

Nguyễn Đình Đăng là một nhà vật lý, nhà nghiên cứu về lý thuyết vật lý hạt nhân tại Viện Vật lý hóa học Nhật Bản. Ông còn là một họa sĩ, hội viên của Hội Mỹ thuật Việt Nam, Hội Mỹ thuật Chủ thể Nhật Bản.
tranh1-7103-1487924704.jpg


Tổng Hợp Series
NHỚ LẠI
Hồi ký của bác sỹ Vũ Thị Chín

Chương 1-2: https://xamvn.fit/r/nho-lai-hoi-ky-cua-bac-sy-vu-thi-chin-giai-phong-thu-do-1-2-22-chuong.1300132/

Chương 3-4: https://xamvn.fit/r/nho-lai-hoi-ky-cua-bac-sy-vu-thi-chin-giai-phong-thu-do-3-4-22-chuong.1300141/

Chương 5-6: https://xamvn.bet/r/nho-lai-hoi-ky-cua-bac-sy-vu-thi-chin-giai-phong-thu-do-5-6-22-chuong.1300533/

Chương 7-8: https://xamvn.bet/r/nho-lai-hoi-ky-cua-bac-sy-vu-thi-chin-giai-phong-thu-do-7-8-22-chuong.1300772/

Chương 9-10 :https://xamvn.bet/r/nho-lai-hoi-ky-cua-bac-sy-vu-thi-chin-giai-phong-thu-do-9-10-22-chuong.1301996/
 
Sửa lần cuối:
Hít... hà... cứ phải gọi là phê lòi cái tòa nhà
Như là kiếp trước mình sống ở Fap thì phải
411354606_3579961868929354_7169211509014297949_n.jpg
Ở Vũng Tàu mấy tòa Pháp còn cũng kha khá, không to lớn như hình trên thôi. Sài Gòn thì bị rỉa gần hết cmnr.

bao-tang-vu-khi-co-1024x669.jpg
 
Ở Vũng Tàu mấy tòa Pháp còn cũng kha khá, không to lớn như hình trên thôi. Sài Gòn thì bị rỉa gần hết cmnr.

bao-tang-vu-khi-co-1024x669.jpg
đúng là có vậy mới thấy dân đông lào kiến trúc xây dựng rõ chán, nếu mà ko du nhập cái văn hóa nhà tây về thì giờ nhà ai nấy cũng quê vãi chồn

sài gòn thì...ôi thôi, nói đến là lắc đầu, cứ toàn xây mấy cái nhà tây ko ra tây, tàu ko ra tàu, cái trong hình chắc tu sửa lại lung tung nên ko còn thấy giống Fap nữa
 
đúng là có vậy mới thấy dân đông lào kiến trúc xây dựng rõ chán, nếu mà ko du nhập cái văn hóa nhà tây về thì giờ nhà ai nấy cũng quê vãi chồn

sài gòn thì...ôi thôi, nói đến là lắc đầu, cứ toàn xây mấy cái nhà tây ko ra tây, tàu ko ra tàu, cái trong hình chắc tu sửa lại lung tung nên ko còn thấy giống Fap nữa
Vẫn là của chủ Pháp á, cái này dùng làm bảo tàng. Nhưng hàng mái tôn, và ghế đá của VN trông nó phèn thôi =)) Cả dàn bông hoa lá hẹ nữa
 
Top