NHỚ LẠI
Hồi ký của bác sỹ Vũ Thị Chín (*)
(trích VII)
(*) Bác sỹ Vũ Thị Chín sinh năm 1924, tốt nghiệp bác sỹ năm 1952 tại Đại học Y khoa Hà Nội, tốt nghiệp chuyên khoa nhi năm 1954 tại Đại học Y khoa Paris, hiện sống tại Hà nội.
*****************************************************************
NỘI TRÚ
Công việc của sinh viên nội trú khá bận rộn. Ngoài việc bám sát chương trình học như các sinh viên khác, ở bệnh viện, mỗi sinh viên nội trú phải chịu trách nhiệm một số giường bệnh, có khi cả một phòng hoặc một khoa, giải quyết kịp thời các chấn thương, phẫu thuật các trường hợp mổ cấp cứu, mỗi ngày thăm khám bệnh nhân hai lần: khám chính buổi sáng, cho chỉ định điều trị, buổi chiều khám lại (contre visite), đêm có mặt bất kể lúc nào khi y tá và sinh viên trực gọi đến bên giường bệnh để hỗ trợ về chẩn đoán và điều trị. Ngoài ra còn xem xét lại các hồ sơ chuẩn bị cho chủ nhiệm khoa duyệt mổ, cho các buổi giao ban, và hội chẩn khoa học.
Những phiên mổ chính giáo sư Pierre Huard hoặc giáo sư Phạm Biểu Tâm là phẫu thuật viên chính, sinh viên nội trú có khi được chỉ định là phẫu thuật viên phụ, thường là khi cần có hai phẫu thuật viên phụ mổ, những trường hợp này không hiếm. Thỉnh thoảng tôi phụ mổ cho giáo sư Huard trong những ca phẫu thuật bướu cổ, hoặc viêm tuỷ xương mãn tính (ostéomyélite) hay u xương (ostéosarcome).
Bác sỹ Huard chuyên về giải phẫu học từ khi ra trường và đã thi tốt nghiệp agrégé về giải phẫu học của trường Đại học y Pháp (Agrégé d’Anatomie des Facultés de Médecine de France) từ 1940 nhằm theo đuổi công tác nghiên cứu và giảng dạy giải phẫu học ở trường đại học y. Trong ngành, chúng tôi biết ông và bác sỹ Đỗ Xuân Hợp, sau này đã cùng công tác viết nhiều công trình về hình thái và giải phẫu học của người Việt Nam, liên quan đến phong tục tập quán của họ.
Trở thành giám đốc bệnh viện Phũ Doãn và chủ nhiệm bộ môn khoa ngoại, rồi hiệu trưởng trường y, bác sỹ Huard là người có tay nghề và kinh nghiệm lâu năm nhất trong phẫu thuật và bệnh lý và xương trên người Việt Nam. Kỹ thuật của ông chính xác, gọn gàng, dứt khoát triệt để. Bác sỹ Huard đã tỉ mỉ chỉ bảo tôi mọi quy tắc phải tuân thủ khi phẫu thuật, từ khâu chải rửa tay bằng xà phòng dưới vòi nước, mặc trang phục mổ, đeo găng (gant), đưa dụng cụ đúng, nhanh, kịp thời, sử dụng từng loại dao, kéo, kẹp (pinces), ấn gạc (compresses) cầm máu, những đường mổ để tiếp cận từng loại phủ tạng thuộc từng khoang trên cơ thể (ổ bụng, lồng ngực v.v.), đến khâu lại dùng loại chỉ, vật liệu nào, đặt ống dẫn lưu drain, và khi băng lại dùng loại nào phù hợp v.v.
Tôi còn nhớ, hồi đầu mới phụ mổ, khi tôi chải tay bằng xà phòng, thấy tôi vẫn còn đeo chiếc nhẫn cưới trên ngón tay, bác sỹ Huard tế nhị bảo: “Nhẫn không tháo, chải sẽ bị mòn, nước xà phòng vào trơn, sẽ tuột mất nhẫn lúc nào không biết.” Bác sỹ Phạm Biểu Tâm khẽ nói: “Có khi còn rơi vào ổ bụng của bệnh nhân nữa ấy chứ, nếu không có găng tay.”
Từ đó, khi hành nghề, luôn phải rửa tay xà phòng, tôi không bao giờ đeo nhẫn. Đỡ không bị mất nhẫn, như mất bút máy, đồng hồ tháo ra rồi quên đeo lại.
Những trường hợp viêm xương mãn tính dẫn tới dò xương kéo dài hàng năm, được bác sỹ Huard mổ, nạo sạch, đã khỏi, không để lại di chứng, giúp người bệnh trở lại lao động bình thường, tìm lại niềm vui trong cuộc sống. Ông ít may mắn hơn trong những ca mổ đòi hỏi sự khéo léo, nhẹ nhàng, tỉ mỉ của đôi bàn tay như bác sỹ Phạm Biểu Tâm, luôn khẽ khàng từ cả trong tiếng nói và đầy nhân hậu với bệnh nhân.
Có lần tôi phụ mổ cho giáo sư Huard trong một ca phẫu thuật bướu cổ, gây nghẹn do chìm sâu (goitre plongeant). U nhỏ thôi, nhưng sâu, bóc tách khó, phẫu thuật kéo dài gần ba tiếng chưa xong, bệnh nhân tự nhiên trụy tim mạch ngất. Hồi đó chưa đầy đủ máy móc hồi sức hiện đại. Bác sỹ Huard tiến hành ngay cấp cứu hà hơi thổi ngạt và xoa bóp tim ngoài lồng ngực. Bệnh nhân đã tỉnh lại. Cuộc mổ xẻ sau đó được tiếp tục và kết thúc. Bệnh nhân thoát chết, nhưng ba xương sườn đã bị rạn gẫy do bác sỹ Huard đã quá mạnh tay.
Vào thời kỳ đó đầu những năm 1950, do tình tình chiến sự đánh du kích vào các vùng tề giáp ranh thành phố gia tăng, hầu như đêm nào cũng có những ca cấp cứu chấn thương nhập viện. Một người trực không xuể, cả ba chúng tôi, nội trú khoa ngoại đều phải tập trung cùng nhau giải quyết. Đôi khi, trong quá trình cấp cứu phẫu thuật cho một số nạn nhân, chúng tôi phát hiện được gương mặt của một số chiến sỹ Việt Minh đã từng gặp ở hậu cứ. Chúng tôi ngầm bảo nhau tận tình cứu chữa, gọi là chút tấm lòng hướng về cuộc kháng chiến mà chúng tôi không theo đuổi được trọn vẹn. Gia đình của ba chúng tôi sau này đều là cơ sở cho cán bộ cách mạng hoạt động nội thành.
Vào ở hẳn nội trú rồi, tôi ít có điều kiện về gia đình. Anh Nam thường đến thăm tôi vào buổi trưa hoặc chiều tối, đôi khi ở lại ăn cơm với tôi. Anh đang học Đại học Khoa học (Faculté des Sciences) khoa Toán Lý, đã đạt chứng chỉ Toán học đại cương (Mathématiques générales) năm 1950 và đang chuẩn bị thi lấy chứng chỉ về vật lý (Certificat de Physique) vào tháng 6/1951. Song, hoạt động sôi nổi cuốn hút anh là các cuộc vận động bãi khóa tại giảng đường, đặc biệt ở khoa vật lý, phong trào do anh khuấy động chống giáo sư thực dân Hatem, khuếch trương tại đại học các cuộc bãi khóa của các học sinh ở các trường trung học Hà Nội, đặc biệt trong nữ sinh có trường Trưng Vương, Chu Văn An, Albert Sarraut. Đầu năm 1950, trong học sinh Hà Nội xôn xao tin anh Trần Văn Ơn, học sinh Sài Gòn bị bắt và bị địch bắn chết. Quân ủy Việt Minh nội thành bí mật lên kế hoạch làm lễ truy điệu Trần Văn Ơn. Tại chùa Quán Sứ, trong khói trầm hương nghi ngút, các đại biểu học sinh sinh viên kêu gọi mọi người đoàn kết đấu tranh, vận động trí thức, giáo viên, giáo sư yêu nước viết thư chia buồn với các gia đình các học sinh bị nạn.
Rồi anh Nam tiếp tục kể tôi nghe về những hoạt động văn hoá xã hội có tính chất yêu nước. Tại cuộc liên hoan văn nghệ học sinh toàn thành (1950), hai cô em gái Lê và Lương của anh cùng các nữ sinh trường Albert Sarraut đã tích cực dựng và diễn vở kịch Quán Thăng Long, một trong những tiết mục đáng chú ý khác như điệu múa Tiên giáng thề của nữ sinh Trưng Vương, bài ca Trường ca sông Lô của nữ sinh Chu Văn An ca ngợi chiến thắng sông Lô của quân và dân ta.
Phong trào đấu tranh của học sinh sinh viên Hà Nội đã gây được ảnh hưởng không nhỏ trong nhân dân, góp phần vào các hoạt động đấu tranh hợp pháp cũng như bí mật trong vùng tạm bị chiếm.
(...) Để tôi được xả hơi chút ít, thỉnh thoảng vào ngày chủ nhật, nếu tôi không có phiên trực, anh Nam đón tôi ra ngoài chơi phố. Bệnh viện Phủ Doãn ở giữa trung tâm thành phố. Ra khỏi bệnh viện, chỉ đi khoảng vài chục bước đã đến phố Hàng Bông. Chúng tôi thường từ Hàng Bông ngược lên Hàng Gai, dạo trên vỉa hè, dừng lại đứng xem một ông thợ truyền thần cặm cụi làm việc. Ông ngắm, nhìn kỹ tấm hình 3x4 hoặc 4x6, vẽ lại, trên khổ giấy cỡ A4, chân dung của nhân vật trong ảnh, mà gia đình đã gửi gắm vào bàn tay nghệ nhân để làm ảnh thờ của người đã khuất hoặc để lưu giữ làm kỷ niệm. Ngoài chân dung một vài cụ già, thật xót xa khi bắt gặp trên giá vẽ gương mặt sáng sủa một thanh niên mười tám đôi mươi: đó có thể là một chàng trai đã ra đi trong cuộc kháng chiến cứu nước hoặc của một tự vệ đã hy sinh trong cuộc chiến đấu bảo vệ thủ đô, để lại trong lòng người thân niềm tự hào cùng niềm tiếc thương vô hạn.
Nếu đi phố vào chiều tối, đến ngã tư hồ Hoàn Kiếm, chúng tôi đi ngang sang phố Đinh Liệt, rồi vào phố Tạ Hiền ăn lục tào xá. Khi nào có tiền kha khá, anh Nam dẫn tôi vào Mỹ Kim ăn chim quay. Chúng tôi thường thích buổi tối, lên tận phố Mã Mây ăn bánh trôi tàu, mỗi bát có hai chiếc bánh: một nhân vừng đen, một nhân đỗ xanh dừa, thơm ngon, ngọt lịm, hoặc đợi bà hàng vớt từ chiếc chảo chiên ngập dầu những chiếc bánh rán cao lâu tròn vo, rắc vừng, vỏ mỏng tang, vàng ươm, cầm lắc lên, nhận thấy nhân bánh lăn như hòn bi trong ruột bánh.
Có khi chủ nhật ban ngày, chúng tôi lên tận chợ Đồng Xuân, vào hàng bà Béo ăn bún thang, chỉ của bà mới ngon.
Mỗi phố cổ Hà Nội có đặc sản ẩm thực riêng mang thương hiệu tên phố. Tôi chưa kể đến chả cá Lã Vọng vì tôi không thích lắm và không gian ở đó quá chật. Ăn bánh tôm ở Hồ Tây để đồng thời được nhìn ra hồ, một bên là Trúc Bạch, bên kia là Tây Hồ với bao nhiêu di tích văn hoá lịch sử của thủ đô văn hiến. Giữa trời và nước bao la, bánh không ngon cũng thành ngon.
Trong thời gian nội trú ở bệnh viện, hiếm khi tôi được về thăm bố mẹ chồng và các em. Gia đình nhà tôi tuy vẫn giữ nề nếp gia phong cổ truyền: có ngôi thứ, có trưởng tộc, trưởng họ, được các thành viên trong gia đình trọng thị, song bố mẹ ít trực tiếp quan tâm tham gia vào công việc của các con, trừ mợ tôi chỉ không ngớt nhắc nhở các con cháu trời nắng thì phải đội nón mũ, trời rét quàng khăn, mặc áo ấm, đi tất, đi đường cẩn thận không thì dễ bị tai nạn v.v.
Mỗi lần về nhà 10 Crévost, sau khi chào hỏi bố mẹ chồng và các em, được bà già không quên để dành cho thứ nọ thứ kia, anh Nam đưa tôi trở lại căn phòng của chúng tôi ở tầng một, tách biệt hẳn với hai tầng trên, nơi sinh hoạt của gia đình. Tôi thu dọn nhà của cho gọn gàng, tuy khi tôi đi vắng, bà già vẫn vào làm vệ sinh, nhưng đồ đạc sách vở của anh, hay bầy bừa, u không dám động đến, sợ anh không tìm thấy thứ anh cần trong cái trật tự hỗn độn của anh. Căn phòng thoáng đãng hơn. Tại đây, vào những trưa hè yên ắng hoặc những đêm tĩnh lặng của con phố vắng chỉ còn hai chúng tôi. Khoảnh khắc tuyệt diệu của cuộc sống lứa đôi (...)
Cuối năm 1951, đầu 1952, tôi chuyển sang nội trú khoa nội tại Bệnh viện Bạch Mai. Chủ nhiệm khoa là bác sỹ Đặng Văn Chung, nội trú cũ của giáo sư Blondel. Vị giáo sư này là chủ nhiệm bộ môn bệnh lý của trường y, nay giữ cương vị cố vấn của khoa nội. Hồi đó mỗi chuyên khoa đều có một chủ nhiệm khoa người Việt và một giáo sư cố vấn người Pháp. Như khoa Tai - Mũi - Họng có bác sỹ Võ Tấn là chủ nhiệm và giáo sư Sollier là cố vấn, khoa truyền nhiễm có bác sỹ Trịnh Ngọc Phan là chủ nhiệm, giáo sư Rivoalen là cố vấn, v.v.
Phòng nội trú tại bệnh viện Bạch Mai nằm trong khu vực hành chính quản trị thuộc toà nhà chính giữa, đối diện cổng ra vào của bệnh viện.
Phòng bé, chỉ kê được một chiếc giường cá nhân, một bàn làm việc nhỏ. Ở đây không có nhân viên phục vụ riêng. Bữa ăn do cấp dưỡng bệnh viện đem đến, trên đường xe đẩy thức ăn tới các san (salle: phòng bệnh) phân phối cho bệnh nhân.
Khoa nội lúc đó chủ yếu điều trị các bệnh tim mạch, thường gặp là suy tim do thấp khớp, phù dinh dưỡng (béribéri) do thiếu vitamin B1, khá phổ biến có hẳn một san, giường luôn luôn kín bệnh nhân, mặt tay chân phù nể không bước nổi. Ngoài ra còn một vài san dành cho các bệnh nội khoa khác, sốt rét ác tính, viêm và abcès (áp-xe) gan, viêm túi và ống dẫn mật, do giun đũa, sỏi mật, sỏi đường, tiết niệu, viêm thận cấp và mãn tính v.v. Nói chung các bệnh cảnh nhiệt đới đều có mặt. Chính tại các san này vào những năm 1945 - 1946, tôi đã từng chứng kiến và theo dõi những bệnh nhân bị sốt chấy rận (typhus), còn gọi là sốt hồi quy (fièvre récurrente). Khi dịch còn đang hoành hành, khoa truyền nhiễm chật cứng không còn đủ chỗ để chữa bệnh nhân. Loại trừ một số bệnh thông thường, có thể xuất viện sau vài ngày không phải thuốc men gì đáng kể cũng tự khỏi, có những trường hợp khó nan giải, phải hội chẩn đi hội chẩn lại, những bệnh mà người thầy thuốc khó quên cũng như thân chủ cũng nhớ mãi người thầy.
Tôi học được ở bác sỹ Đặng Văn Chung tác phong ôn hoà gần gũi bệnh nhân, sự tỷ mỷ, tinh tế tôn trọng người bệnh đi đôi với tính nghiêm túc thực hiện các quy trình kỹ thuật thăm khám lâm sàng. Những yêu cầu thăm khám chuyên khoa và xét nghiệm cận lâm sàng cần thiết sự khiêm tốn và tinh thần thực sự cầu thị trong hội chẩn. Ông còn chịu khó lắng nghe người bệnh không chỉ về bệnh tình của mình, mà cả những thổ lộ tâm tư về hoàn cảnh riêng tư, về môi trường mình sống, thậm chí của cả xóm giềng, hàng phố mình đang trú ngự nữa. Mỗi bệnh nhân là một mảnh đời, một câu chuyện cần được gỡ rối mới giúp cho bệnh mau khỏi. Khác với ngoại khoa, nội khoa gặp không ít bệnh lý tâm-thể. Đối với những ca phức tạp, chỉ khi có đầy đủ thông tin và hội chẩn cần biết, bác sỹ Chung mới thận trọng đưa ra kết luận chẩn đoán, thường chính xác, dẫn tới phương hướng điều trị xác đáng. Trong những trường hợp vẫn xảy ra tử vong, chẩn đoán và điều trị được đánh giá, thẩm định kiểm tra bằng kết quả xét nghiệm mổ tử thi. Những cuộc bệnh lý giải phẫu này thường được sinh viên nội trú, trực tiếp theo dõi bệnh nhân, tiến hành dưới sự giám sát của chủ nhiệm khoa, đôi khi giáo sư Blondel cũng dự. Có những cuộc mổ tử thi lấy mẫu bệnh phẩm để xét nghiệm bệnh lý giải phẫu phải thực hiện ban đêm, chỉ có sinh viên nội trú cùng một sinh viên trực làm, sau đó sắp xếp phủ tạng y chang và khâu kín, mặc quần áo tử tế lại cho tử thi, tránh gây thương tâm, stress cho gia đình buổi sáng hôm sau đến làm thủ tục mai táng. Đôi khi có người trong gia đình hoàn toàn không vừa ý đã chửi rủa, mắng mỏ như tát nước. Ráng mà chịu.
Những cuộc bệnh lý giải phẫu đó là những bài học vô cùng quý giá, cho nhìn thấy, sờ nắn thấy những tổn thương chỉ biểu hiện bằng triệu chứng trên người bệnh còn sống, giúp xác định lại chẩn đoán, nâng cao chất lượng tiên đoán và điều trị.
TỐT NGHIỆP BÁC SỸ Y KHOA
Về cuối thời kỳ nội trú ở khoa nội, tôi tập trung vào viết luận án tốt nghiệp, đã được chuẩn bị từ lúc còn ở khoa ngoại, về đề tài “Bệnh sỏi mật ở miền Bắc Việt Nam”.
Thư viện bệnh viện Phủ Doãn là một kho tư liệu phong phú lưu trữ nhiều bệnh án về bệnh gan và mật. Một số do chính bác sỹ Tôn Thất Tùng viết từ thời còn là sinh viên nội trú tại đây. Tôi đã đọc, tham khảo, đối chiếu với những thực tế lâm sàng trên các bệnh nhân của tôi. Tôi tiếp tục nghiên cứu, bổ sung thêm tư liệu tại bệnh viện Bạch Mai. Ở đây, tôi có điều kiện mổ tử thi, lấy bệnh phẩm làm xét nghiệm. Thời gian rỗi, tôi xuống phòng xét nghiệm do bác sỹ Vũ Công Hòe làm chủ nhiệm, cung cấp những thông tin lâm sàng và trên mổ tử thi để cùng đọc và phân tích kết quả. Tôi đã chụp được ảnh của những viên sỏi mật kích cỡ khác nhau, có tố chất không giống nhau, có khi lèn chặt cả lòng túi mật, phát hiện ra tính đa dạng của bệnh viêm gan, túi mật và ống dẫn mật, nhiều khi kết hợp với giun chui ống mật, trên một số bệnh nhân đến từ các vùng nông thôn.
Tập trung viết luận án, tôi thuê người đến nhà đánh máy. Trên tầng tum vào những ngày hè nóng bức, tôi ngồi kèm ông thợ đánh máy. Ông cẩn thận, có tay nghề, song đâu có biết những từ kỹ thuật, chuyên môn nên đôi khi phải đánh vần cho ông gõ từng chữ. Những ngày tôi bận trực, anh Nam thay tôi làm công việc vất vả và chán ngắt đó đối với người “ngoại đạo”
Sau hơn một tháng đánh máy ròng rã xong bản luận án bằng tiếng Pháp, dày 320 trang, dán những ảnh minh hoạ, đóng bìa cứng, nộp để được thông qua, rồi sửa theo sự góp ý của hội đồng chấm thi, tôi chờ ngày bảo vệ luận án và làm lễ tốt nghiệp với một số bạn cùng khóa.
Một chi tiết làm tôi nhớ mãi ngày đó: Vào thời điểm long trọng trang nghiêm, lúc tuyên thệ, đọc lời thề Hippocrate, tôi không sao nhịn được cười, khi một bạn đồng môn đã giơ cả hai tay lên tuyên thệ như người mất trí. Ông thợ ảnh quái ác đã bấm ngay một pô ảnh ghi lại sự kiện không bao giờ quên đó.
Thế là cả nhóm chúng tôi, khoảng 5 - 6 người, đã tốt nghiệp y khoa bác sỹ khóa tháng 5/1952 [1].
Sau tốt nghiệp, trường dự kiến xin cấp học bổng cho tôi sang Pháp tu nghiệp về nhi khoa.
Thời gian học nội trú và chuẩn bị luận án bác sỹ, tôi đã dồn hết tâm trí vào học tập, không quan tâm nhiều tới thời cuộc và tình hình chính trị xã hội. Anh Nam và mấy cô em gái trái lại rất hăng say với phong trào sinh viên học sinh phản kháng chính quyền thực dân, ủng hộ Việt Minh. Sau vụ truy điệu Trần Văn Ơn và liên hoan văn nghệ học sinh toàn thành, thực dân Pháp tìm mọi cách phá phong trào thanh niên học sinh, khủng bố gắt gao, bắt bỏ tù một số đoàn viên kháng chiến, buộc gia đình phải bảo lãnh, ngăn cấm con hoạt động kháng chiến chúng mới thả ra. Một số đoàn viên được tổ chức đưa ra vùng tự do trong đó có Lê, em gái anh Nam, chuẩn bị lực lượng chờ thời cơ chủ động đánh địch, trong khi chúng có âm mưu mới. Cô Đồng cũng ra với chồng đang ở vùng kháng chiến.
Dưới sự thúc ép của Mỹ và Pháp, chính quyền bù nhìn lập ra quân đội quốc gia. Sau khi Bảo Đại ký đạo dụ “tổng động viên” ngày 15/7/1951, địch huy động học sinh sinh viên đi học các trường sỹ quan Đà Lạt, Nam Định, tăng cường bắt lính, thậm chí đến tận nhà bắt đi không báo trước. Thông thường các gia đình chạy tiền để con em khỏi phải đi lính, cho con lẩn tránh hết đợt động viên lại về, hoặc ra hậu phương. Anh Nam biết mình cũng đang ở trong tầm ngắm, do tham gia tổ chức bãi khoá ở trường đại học, có người em cầm đầu nhóm nữ sinh Albert Sarraut kháng chiến, đã ra vùng tự do. Bản thân tôi cũng đã có lần bị sở Liêm Phóng gọi ra hỏi tại sao lại viết thư kể tin này nọ cho vài người bạn ở bên Pháp. Lúc đó tôi đang nội trú ở Bệnh viện Phủ Doãn. Chẳng có lý do, căn cứ gì cụ thể để buộc tội và giam giữ, và cũng do phong trào đấu tranh mạnh mẽ đòi thủ hiến chính quyền Hà Nội tạm bị chiếm thả những người bị bỏ tù vô căn cứ, bọn mật thám đành thả tôi về bệnh viện. Có lẽ tôi chẳng phải là một đối tượng gì ghê gớm. Chúng gọi tôi đến xét hỏi, hẳn chỉ là răn đe.
Trước các cuộc bắt lính ngày càng nhiều và mở rộng, anh Nam, đang học Đại học khoa học (khoa Toán-Lý-Hoá), quyết định sang Pháp du học. Quyết định đó được bố chồng tôi ủng hộ: Ông muốn tránh cho anh những cuộc vây ráp bắt đi lính, và cũng muốn anh làm xong bằng cử nhân khoa học. Đó là vào mùa thu 1952, tôi vừa tốt nghiệp bác sỹ được khoảng ba tháng.
Anh Nam tới Paris vào đầu tháng 9/1952, và báo tin cho tôi biết đã đăng ký được vào học khoa Toán Cơ (Mécanique Rationnelle) trường Sorbonne, Đại học đường Paris tháng 10/1952.
BỆNH VIỆN ĐẶNG VŨ LẠC - ĐI PHÁP HỌC CHUYÊN KHOA NHI
Ở Hà Nội tôi đang chờ trường y cho biết trả lời của Đại học Y khoa Paris về việc tiếp nhận tôi vào học chuyên khoa nhi. Trong khi chờ, tôi làm việc cho bệnh viện Đặng Vũ Lạc, khi đó là một bệnh viện tư đa khoa, thuộc loại có quy mô, tổ chức và trang thiết bị tốt nhất Hà Nội (sau là Bệnh viện B Hà Nội, rồi Việt Nam - Cuba, và nay là Bệnh viện tim Hà Nội, ở số 92 phố Trần Hưng Đạo). Uy tín của bệnh viện có được từ thời bác sỹ Đặng Vũ Lạc sáng lập, dựa vào danh tiếng, kinh nghiệm, chất lượng chẩn trị của những bác sĩ, giáo sư đầu ngành được mời tới đây làm việc ngoài giờ, như bác sỹ Đặng Văn Chung, Phạm Khắc Quảng, Đinh Văn Thắng v.v. Bệnh viện do bà quả phụ Đặng Vũ Lạc - nữ hộ sinh kỳ cựu, và con gái bác sỹ Đặng Vũ Lạc - chị Đặng Thị Ánh, học sinh cũ trường Sarraut, điều hành. Từ 1953 - 1954, trong ban quản trị có thêm bác sỹ Phạm Văn Diễn làm giám đốc bệnh viện.
Đội ngũ y tá, các khoa phòng, xét nghiệm viên, công nhân đều được tuyển chọn kỹ lưỡng. Các bác sỹ hành nghề ở đây được trả thù lao theo thỏa thuận, hưởng lương tháng cố định hoặc theo số lượng bệnh nhân tới khám, xét nghiệm chuyên khoa hoặc theo hạng mục can thiệp phẫu thuật (thường mổ đẻ, đặt forceps).
Tôi có một phòng khám riêng ở đây, làm việc ngày hai buổi (vì không làm ở bệnh viện công) và hưởng lương tháng. Tuy tôi mới ra trường, nhưng nhanh chóng số bệnh nhân đến với tôi, chủ yếu là phụ nữ với trẻ em, cũng đủ cho tôi làm từ sáng tới chiều. Nhà ở tôi ở phố Crevost, gần bệnh viện [2], nhưng hàng ngày có ô tô bệnh viện đưa đón tôi đi làm [3].
Trong ba tháng làm việc ở bệnh viện Đặng Vũ Lạc, tôi đã dành đủ tiền mua vé máy bay và chi phí ban đầu để sang Pháp. Giữa tháng 10/1952 trường y Hà Nội thông báo tôi đã được Đại học Y khoa Paris chấp nhận vào học, lấy chứng chỉ về nhi và dưỡng nhi tại trường dưỡng nhi với sự đồng thuận của giáo sư Marcel Lelong, hiệu trưởng. Thông báo yêu cầu tôi phải có mặt trước ngày 15/11/52 để làm thủ tục tựu trường.
Tôi gấp rút chuẩn bị hành trang lên đường. Mẹ chồng tôi băn khoăn sao tôi không mang theo chăn bông “vì bên Tây lạnh lắm”. Tôi phải trấn an: “Mợ yên tâm, anh Nam biên thư về đã lo đủ cả rồi”.
Đưa tôi ra sân bay có anh Trịnh Văn Du, bạn anh Nam, chủ một hiệu sách ở phố Tràng Thi, nghe nói là cơ sở hoạt động của cán bộ nội thành.
Tôi tới Paris ngày 4/11/1952. Anh Nam ra đón tôi tại sân bay Orly và đưa tôi về khách sạn 1 phố Racine, nơi anh đã thuê một phòng nhỏ làm nơi trú ngụ của hai chúng tôi trong suốt thời gian ở Pháp.
(Còn tiếp)
Chú giải của N.Đ.Đ.
_________________
[1] Hai người trong khóa này, Vũ Thị Chín và Nghiêm Thị Thuần, là hai phụ nữ Việt Nam đầu tiền tốt nghiệp bác sỹ tại Đại học Y khoa Hà Nội. Hai năm sau đó, bác sỹ Nghiêm Thị Thuần đã di cư vào Nam (năm 1954), rồi từ miền Nam Việt Nam sang Canada, nơi bà qua đời vào năm 2020 ở tuồi 97.
[2] Nhà số 10 phố Crévost (số 10 phố Thiền Quang ngày nay) cách bệnh viện Đặng Vũ Lạc (bệnh viện Tim ngày nay, ở 92 Trần Hưng Đạo) 550 m. Đi bộ từ nhà tới bệnh viện, dọc theo phố Yết Kiêu, mất 7 phút.
[3] Theo lời GS Trần Kim Đan, cháu ngoại bác sỹ Đặng Vũ Lạc, đó là một chiếc xe ô-tô Peugeot màu đen.
--------------------
Hồi ký của bác sỹ Vũ Thị Chín (*)
(trích VII)
(*) Bác sỹ Vũ Thị Chín sinh năm 1924, tốt nghiệp bác sỹ năm 1952 tại Đại học Y khoa Hà Nội, tốt nghiệp chuyên khoa nhi năm 1954 tại Đại học Y khoa Paris, hiện sống tại Hà nội.
*****************************************************************

NỘI TRÚ
Công việc của sinh viên nội trú khá bận rộn. Ngoài việc bám sát chương trình học như các sinh viên khác, ở bệnh viện, mỗi sinh viên nội trú phải chịu trách nhiệm một số giường bệnh, có khi cả một phòng hoặc một khoa, giải quyết kịp thời các chấn thương, phẫu thuật các trường hợp mổ cấp cứu, mỗi ngày thăm khám bệnh nhân hai lần: khám chính buổi sáng, cho chỉ định điều trị, buổi chiều khám lại (contre visite), đêm có mặt bất kể lúc nào khi y tá và sinh viên trực gọi đến bên giường bệnh để hỗ trợ về chẩn đoán và điều trị. Ngoài ra còn xem xét lại các hồ sơ chuẩn bị cho chủ nhiệm khoa duyệt mổ, cho các buổi giao ban, và hội chẩn khoa học.
Những phiên mổ chính giáo sư Pierre Huard hoặc giáo sư Phạm Biểu Tâm là phẫu thuật viên chính, sinh viên nội trú có khi được chỉ định là phẫu thuật viên phụ, thường là khi cần có hai phẫu thuật viên phụ mổ, những trường hợp này không hiếm. Thỉnh thoảng tôi phụ mổ cho giáo sư Huard trong những ca phẫu thuật bướu cổ, hoặc viêm tuỷ xương mãn tính (ostéomyélite) hay u xương (ostéosarcome).
Bác sỹ Huard chuyên về giải phẫu học từ khi ra trường và đã thi tốt nghiệp agrégé về giải phẫu học của trường Đại học y Pháp (Agrégé d’Anatomie des Facultés de Médecine de France) từ 1940 nhằm theo đuổi công tác nghiên cứu và giảng dạy giải phẫu học ở trường đại học y. Trong ngành, chúng tôi biết ông và bác sỹ Đỗ Xuân Hợp, sau này đã cùng công tác viết nhiều công trình về hình thái và giải phẫu học của người Việt Nam, liên quan đến phong tục tập quán của họ.
Trở thành giám đốc bệnh viện Phũ Doãn và chủ nhiệm bộ môn khoa ngoại, rồi hiệu trưởng trường y, bác sỹ Huard là người có tay nghề và kinh nghiệm lâu năm nhất trong phẫu thuật và bệnh lý và xương trên người Việt Nam. Kỹ thuật của ông chính xác, gọn gàng, dứt khoát triệt để. Bác sỹ Huard đã tỉ mỉ chỉ bảo tôi mọi quy tắc phải tuân thủ khi phẫu thuật, từ khâu chải rửa tay bằng xà phòng dưới vòi nước, mặc trang phục mổ, đeo găng (gant), đưa dụng cụ đúng, nhanh, kịp thời, sử dụng từng loại dao, kéo, kẹp (pinces), ấn gạc (compresses) cầm máu, những đường mổ để tiếp cận từng loại phủ tạng thuộc từng khoang trên cơ thể (ổ bụng, lồng ngực v.v.), đến khâu lại dùng loại chỉ, vật liệu nào, đặt ống dẫn lưu drain, và khi băng lại dùng loại nào phù hợp v.v.
Tôi còn nhớ, hồi đầu mới phụ mổ, khi tôi chải tay bằng xà phòng, thấy tôi vẫn còn đeo chiếc nhẫn cưới trên ngón tay, bác sỹ Huard tế nhị bảo: “Nhẫn không tháo, chải sẽ bị mòn, nước xà phòng vào trơn, sẽ tuột mất nhẫn lúc nào không biết.” Bác sỹ Phạm Biểu Tâm khẽ nói: “Có khi còn rơi vào ổ bụng của bệnh nhân nữa ấy chứ, nếu không có găng tay.”
Từ đó, khi hành nghề, luôn phải rửa tay xà phòng, tôi không bao giờ đeo nhẫn. Đỡ không bị mất nhẫn, như mất bút máy, đồng hồ tháo ra rồi quên đeo lại.

Những trường hợp viêm xương mãn tính dẫn tới dò xương kéo dài hàng năm, được bác sỹ Huard mổ, nạo sạch, đã khỏi, không để lại di chứng, giúp người bệnh trở lại lao động bình thường, tìm lại niềm vui trong cuộc sống. Ông ít may mắn hơn trong những ca mổ đòi hỏi sự khéo léo, nhẹ nhàng, tỉ mỉ của đôi bàn tay như bác sỹ Phạm Biểu Tâm, luôn khẽ khàng từ cả trong tiếng nói và đầy nhân hậu với bệnh nhân.
Có lần tôi phụ mổ cho giáo sư Huard trong một ca phẫu thuật bướu cổ, gây nghẹn do chìm sâu (goitre plongeant). U nhỏ thôi, nhưng sâu, bóc tách khó, phẫu thuật kéo dài gần ba tiếng chưa xong, bệnh nhân tự nhiên trụy tim mạch ngất. Hồi đó chưa đầy đủ máy móc hồi sức hiện đại. Bác sỹ Huard tiến hành ngay cấp cứu hà hơi thổi ngạt và xoa bóp tim ngoài lồng ngực. Bệnh nhân đã tỉnh lại. Cuộc mổ xẻ sau đó được tiếp tục và kết thúc. Bệnh nhân thoát chết, nhưng ba xương sườn đã bị rạn gẫy do bác sỹ Huard đã quá mạnh tay.
Vào thời kỳ đó đầu những năm 1950, do tình tình chiến sự đánh du kích vào các vùng tề giáp ranh thành phố gia tăng, hầu như đêm nào cũng có những ca cấp cứu chấn thương nhập viện. Một người trực không xuể, cả ba chúng tôi, nội trú khoa ngoại đều phải tập trung cùng nhau giải quyết. Đôi khi, trong quá trình cấp cứu phẫu thuật cho một số nạn nhân, chúng tôi phát hiện được gương mặt của một số chiến sỹ Việt Minh đã từng gặp ở hậu cứ. Chúng tôi ngầm bảo nhau tận tình cứu chữa, gọi là chút tấm lòng hướng về cuộc kháng chiến mà chúng tôi không theo đuổi được trọn vẹn. Gia đình của ba chúng tôi sau này đều là cơ sở cho cán bộ cách mạng hoạt động nội thành.
Vào ở hẳn nội trú rồi, tôi ít có điều kiện về gia đình. Anh Nam thường đến thăm tôi vào buổi trưa hoặc chiều tối, đôi khi ở lại ăn cơm với tôi. Anh đang học Đại học Khoa học (Faculté des Sciences) khoa Toán Lý, đã đạt chứng chỉ Toán học đại cương (Mathématiques générales) năm 1950 và đang chuẩn bị thi lấy chứng chỉ về vật lý (Certificat de Physique) vào tháng 6/1951. Song, hoạt động sôi nổi cuốn hút anh là các cuộc vận động bãi khóa tại giảng đường, đặc biệt ở khoa vật lý, phong trào do anh khuấy động chống giáo sư thực dân Hatem, khuếch trương tại đại học các cuộc bãi khóa của các học sinh ở các trường trung học Hà Nội, đặc biệt trong nữ sinh có trường Trưng Vương, Chu Văn An, Albert Sarraut. Đầu năm 1950, trong học sinh Hà Nội xôn xao tin anh Trần Văn Ơn, học sinh Sài Gòn bị bắt và bị địch bắn chết. Quân ủy Việt Minh nội thành bí mật lên kế hoạch làm lễ truy điệu Trần Văn Ơn. Tại chùa Quán Sứ, trong khói trầm hương nghi ngút, các đại biểu học sinh sinh viên kêu gọi mọi người đoàn kết đấu tranh, vận động trí thức, giáo viên, giáo sư yêu nước viết thư chia buồn với các gia đình các học sinh bị nạn.
Rồi anh Nam tiếp tục kể tôi nghe về những hoạt động văn hoá xã hội có tính chất yêu nước. Tại cuộc liên hoan văn nghệ học sinh toàn thành (1950), hai cô em gái Lê và Lương của anh cùng các nữ sinh trường Albert Sarraut đã tích cực dựng và diễn vở kịch Quán Thăng Long, một trong những tiết mục đáng chú ý khác như điệu múa Tiên giáng thề của nữ sinh Trưng Vương, bài ca Trường ca sông Lô của nữ sinh Chu Văn An ca ngợi chiến thắng sông Lô của quân và dân ta.
Phong trào đấu tranh của học sinh sinh viên Hà Nội đã gây được ảnh hưởng không nhỏ trong nhân dân, góp phần vào các hoạt động đấu tranh hợp pháp cũng như bí mật trong vùng tạm bị chiếm.

(...) Để tôi được xả hơi chút ít, thỉnh thoảng vào ngày chủ nhật, nếu tôi không có phiên trực, anh Nam đón tôi ra ngoài chơi phố. Bệnh viện Phủ Doãn ở giữa trung tâm thành phố. Ra khỏi bệnh viện, chỉ đi khoảng vài chục bước đã đến phố Hàng Bông. Chúng tôi thường từ Hàng Bông ngược lên Hàng Gai, dạo trên vỉa hè, dừng lại đứng xem một ông thợ truyền thần cặm cụi làm việc. Ông ngắm, nhìn kỹ tấm hình 3x4 hoặc 4x6, vẽ lại, trên khổ giấy cỡ A4, chân dung của nhân vật trong ảnh, mà gia đình đã gửi gắm vào bàn tay nghệ nhân để làm ảnh thờ của người đã khuất hoặc để lưu giữ làm kỷ niệm. Ngoài chân dung một vài cụ già, thật xót xa khi bắt gặp trên giá vẽ gương mặt sáng sủa một thanh niên mười tám đôi mươi: đó có thể là một chàng trai đã ra đi trong cuộc kháng chiến cứu nước hoặc của một tự vệ đã hy sinh trong cuộc chiến đấu bảo vệ thủ đô, để lại trong lòng người thân niềm tự hào cùng niềm tiếc thương vô hạn.
Nếu đi phố vào chiều tối, đến ngã tư hồ Hoàn Kiếm, chúng tôi đi ngang sang phố Đinh Liệt, rồi vào phố Tạ Hiền ăn lục tào xá. Khi nào có tiền kha khá, anh Nam dẫn tôi vào Mỹ Kim ăn chim quay. Chúng tôi thường thích buổi tối, lên tận phố Mã Mây ăn bánh trôi tàu, mỗi bát có hai chiếc bánh: một nhân vừng đen, một nhân đỗ xanh dừa, thơm ngon, ngọt lịm, hoặc đợi bà hàng vớt từ chiếc chảo chiên ngập dầu những chiếc bánh rán cao lâu tròn vo, rắc vừng, vỏ mỏng tang, vàng ươm, cầm lắc lên, nhận thấy nhân bánh lăn như hòn bi trong ruột bánh.
Có khi chủ nhật ban ngày, chúng tôi lên tận chợ Đồng Xuân, vào hàng bà Béo ăn bún thang, chỉ của bà mới ngon.
Mỗi phố cổ Hà Nội có đặc sản ẩm thực riêng mang thương hiệu tên phố. Tôi chưa kể đến chả cá Lã Vọng vì tôi không thích lắm và không gian ở đó quá chật. Ăn bánh tôm ở Hồ Tây để đồng thời được nhìn ra hồ, một bên là Trúc Bạch, bên kia là Tây Hồ với bao nhiêu di tích văn hoá lịch sử của thủ đô văn hiến. Giữa trời và nước bao la, bánh không ngon cũng thành ngon.
Trong thời gian nội trú ở bệnh viện, hiếm khi tôi được về thăm bố mẹ chồng và các em. Gia đình nhà tôi tuy vẫn giữ nề nếp gia phong cổ truyền: có ngôi thứ, có trưởng tộc, trưởng họ, được các thành viên trong gia đình trọng thị, song bố mẹ ít trực tiếp quan tâm tham gia vào công việc của các con, trừ mợ tôi chỉ không ngớt nhắc nhở các con cháu trời nắng thì phải đội nón mũ, trời rét quàng khăn, mặc áo ấm, đi tất, đi đường cẩn thận không thì dễ bị tai nạn v.v.
Mỗi lần về nhà 10 Crévost, sau khi chào hỏi bố mẹ chồng và các em, được bà già không quên để dành cho thứ nọ thứ kia, anh Nam đưa tôi trở lại căn phòng của chúng tôi ở tầng một, tách biệt hẳn với hai tầng trên, nơi sinh hoạt của gia đình. Tôi thu dọn nhà của cho gọn gàng, tuy khi tôi đi vắng, bà già vẫn vào làm vệ sinh, nhưng đồ đạc sách vở của anh, hay bầy bừa, u không dám động đến, sợ anh không tìm thấy thứ anh cần trong cái trật tự hỗn độn của anh. Căn phòng thoáng đãng hơn. Tại đây, vào những trưa hè yên ắng hoặc những đêm tĩnh lặng của con phố vắng chỉ còn hai chúng tôi. Khoảnh khắc tuyệt diệu của cuộc sống lứa đôi (...)
Cuối năm 1951, đầu 1952, tôi chuyển sang nội trú khoa nội tại Bệnh viện Bạch Mai. Chủ nhiệm khoa là bác sỹ Đặng Văn Chung, nội trú cũ của giáo sư Blondel. Vị giáo sư này là chủ nhiệm bộ môn bệnh lý của trường y, nay giữ cương vị cố vấn của khoa nội. Hồi đó mỗi chuyên khoa đều có một chủ nhiệm khoa người Việt và một giáo sư cố vấn người Pháp. Như khoa Tai - Mũi - Họng có bác sỹ Võ Tấn là chủ nhiệm và giáo sư Sollier là cố vấn, khoa truyền nhiễm có bác sỹ Trịnh Ngọc Phan là chủ nhiệm, giáo sư Rivoalen là cố vấn, v.v.
Phòng nội trú tại bệnh viện Bạch Mai nằm trong khu vực hành chính quản trị thuộc toà nhà chính giữa, đối diện cổng ra vào của bệnh viện.
Phòng bé, chỉ kê được một chiếc giường cá nhân, một bàn làm việc nhỏ. Ở đây không có nhân viên phục vụ riêng. Bữa ăn do cấp dưỡng bệnh viện đem đến, trên đường xe đẩy thức ăn tới các san (salle: phòng bệnh) phân phối cho bệnh nhân.

Khoa nội lúc đó chủ yếu điều trị các bệnh tim mạch, thường gặp là suy tim do thấp khớp, phù dinh dưỡng (béribéri) do thiếu vitamin B1, khá phổ biến có hẳn một san, giường luôn luôn kín bệnh nhân, mặt tay chân phù nể không bước nổi. Ngoài ra còn một vài san dành cho các bệnh nội khoa khác, sốt rét ác tính, viêm và abcès (áp-xe) gan, viêm túi và ống dẫn mật, do giun đũa, sỏi mật, sỏi đường, tiết niệu, viêm thận cấp và mãn tính v.v. Nói chung các bệnh cảnh nhiệt đới đều có mặt. Chính tại các san này vào những năm 1945 - 1946, tôi đã từng chứng kiến và theo dõi những bệnh nhân bị sốt chấy rận (typhus), còn gọi là sốt hồi quy (fièvre récurrente). Khi dịch còn đang hoành hành, khoa truyền nhiễm chật cứng không còn đủ chỗ để chữa bệnh nhân. Loại trừ một số bệnh thông thường, có thể xuất viện sau vài ngày không phải thuốc men gì đáng kể cũng tự khỏi, có những trường hợp khó nan giải, phải hội chẩn đi hội chẩn lại, những bệnh mà người thầy thuốc khó quên cũng như thân chủ cũng nhớ mãi người thầy.
Tôi học được ở bác sỹ Đặng Văn Chung tác phong ôn hoà gần gũi bệnh nhân, sự tỷ mỷ, tinh tế tôn trọng người bệnh đi đôi với tính nghiêm túc thực hiện các quy trình kỹ thuật thăm khám lâm sàng. Những yêu cầu thăm khám chuyên khoa và xét nghiệm cận lâm sàng cần thiết sự khiêm tốn và tinh thần thực sự cầu thị trong hội chẩn. Ông còn chịu khó lắng nghe người bệnh không chỉ về bệnh tình của mình, mà cả những thổ lộ tâm tư về hoàn cảnh riêng tư, về môi trường mình sống, thậm chí của cả xóm giềng, hàng phố mình đang trú ngự nữa. Mỗi bệnh nhân là một mảnh đời, một câu chuyện cần được gỡ rối mới giúp cho bệnh mau khỏi. Khác với ngoại khoa, nội khoa gặp không ít bệnh lý tâm-thể. Đối với những ca phức tạp, chỉ khi có đầy đủ thông tin và hội chẩn cần biết, bác sỹ Chung mới thận trọng đưa ra kết luận chẩn đoán, thường chính xác, dẫn tới phương hướng điều trị xác đáng. Trong những trường hợp vẫn xảy ra tử vong, chẩn đoán và điều trị được đánh giá, thẩm định kiểm tra bằng kết quả xét nghiệm mổ tử thi. Những cuộc bệnh lý giải phẫu này thường được sinh viên nội trú, trực tiếp theo dõi bệnh nhân, tiến hành dưới sự giám sát của chủ nhiệm khoa, đôi khi giáo sư Blondel cũng dự. Có những cuộc mổ tử thi lấy mẫu bệnh phẩm để xét nghiệm bệnh lý giải phẫu phải thực hiện ban đêm, chỉ có sinh viên nội trú cùng một sinh viên trực làm, sau đó sắp xếp phủ tạng y chang và khâu kín, mặc quần áo tử tế lại cho tử thi, tránh gây thương tâm, stress cho gia đình buổi sáng hôm sau đến làm thủ tục mai táng. Đôi khi có người trong gia đình hoàn toàn không vừa ý đã chửi rủa, mắng mỏ như tát nước. Ráng mà chịu.
Những cuộc bệnh lý giải phẫu đó là những bài học vô cùng quý giá, cho nhìn thấy, sờ nắn thấy những tổn thương chỉ biểu hiện bằng triệu chứng trên người bệnh còn sống, giúp xác định lại chẩn đoán, nâng cao chất lượng tiên đoán và điều trị.

TỐT NGHIỆP BÁC SỸ Y KHOA
Về cuối thời kỳ nội trú ở khoa nội, tôi tập trung vào viết luận án tốt nghiệp, đã được chuẩn bị từ lúc còn ở khoa ngoại, về đề tài “Bệnh sỏi mật ở miền Bắc Việt Nam”.
Thư viện bệnh viện Phủ Doãn là một kho tư liệu phong phú lưu trữ nhiều bệnh án về bệnh gan và mật. Một số do chính bác sỹ Tôn Thất Tùng viết từ thời còn là sinh viên nội trú tại đây. Tôi đã đọc, tham khảo, đối chiếu với những thực tế lâm sàng trên các bệnh nhân của tôi. Tôi tiếp tục nghiên cứu, bổ sung thêm tư liệu tại bệnh viện Bạch Mai. Ở đây, tôi có điều kiện mổ tử thi, lấy bệnh phẩm làm xét nghiệm. Thời gian rỗi, tôi xuống phòng xét nghiệm do bác sỹ Vũ Công Hòe làm chủ nhiệm, cung cấp những thông tin lâm sàng và trên mổ tử thi để cùng đọc và phân tích kết quả. Tôi đã chụp được ảnh của những viên sỏi mật kích cỡ khác nhau, có tố chất không giống nhau, có khi lèn chặt cả lòng túi mật, phát hiện ra tính đa dạng của bệnh viêm gan, túi mật và ống dẫn mật, nhiều khi kết hợp với giun chui ống mật, trên một số bệnh nhân đến từ các vùng nông thôn.
Tập trung viết luận án, tôi thuê người đến nhà đánh máy. Trên tầng tum vào những ngày hè nóng bức, tôi ngồi kèm ông thợ đánh máy. Ông cẩn thận, có tay nghề, song đâu có biết những từ kỹ thuật, chuyên môn nên đôi khi phải đánh vần cho ông gõ từng chữ. Những ngày tôi bận trực, anh Nam thay tôi làm công việc vất vả và chán ngắt đó đối với người “ngoại đạo”
Sau hơn một tháng đánh máy ròng rã xong bản luận án bằng tiếng Pháp, dày 320 trang, dán những ảnh minh hoạ, đóng bìa cứng, nộp để được thông qua, rồi sửa theo sự góp ý của hội đồng chấm thi, tôi chờ ngày bảo vệ luận án và làm lễ tốt nghiệp với một số bạn cùng khóa.
Một chi tiết làm tôi nhớ mãi ngày đó: Vào thời điểm long trọng trang nghiêm, lúc tuyên thệ, đọc lời thề Hippocrate, tôi không sao nhịn được cười, khi một bạn đồng môn đã giơ cả hai tay lên tuyên thệ như người mất trí. Ông thợ ảnh quái ác đã bấm ngay một pô ảnh ghi lại sự kiện không bao giờ quên đó.
Thế là cả nhóm chúng tôi, khoảng 5 - 6 người, đã tốt nghiệp y khoa bác sỹ khóa tháng 5/1952 [1].
Sau tốt nghiệp, trường dự kiến xin cấp học bổng cho tôi sang Pháp tu nghiệp về nhi khoa.
Thời gian học nội trú và chuẩn bị luận án bác sỹ, tôi đã dồn hết tâm trí vào học tập, không quan tâm nhiều tới thời cuộc và tình hình chính trị xã hội. Anh Nam và mấy cô em gái trái lại rất hăng say với phong trào sinh viên học sinh phản kháng chính quyền thực dân, ủng hộ Việt Minh. Sau vụ truy điệu Trần Văn Ơn và liên hoan văn nghệ học sinh toàn thành, thực dân Pháp tìm mọi cách phá phong trào thanh niên học sinh, khủng bố gắt gao, bắt bỏ tù một số đoàn viên kháng chiến, buộc gia đình phải bảo lãnh, ngăn cấm con hoạt động kháng chiến chúng mới thả ra. Một số đoàn viên được tổ chức đưa ra vùng tự do trong đó có Lê, em gái anh Nam, chuẩn bị lực lượng chờ thời cơ chủ động đánh địch, trong khi chúng có âm mưu mới. Cô Đồng cũng ra với chồng đang ở vùng kháng chiến.
Dưới sự thúc ép của Mỹ và Pháp, chính quyền bù nhìn lập ra quân đội quốc gia. Sau khi Bảo Đại ký đạo dụ “tổng động viên” ngày 15/7/1951, địch huy động học sinh sinh viên đi học các trường sỹ quan Đà Lạt, Nam Định, tăng cường bắt lính, thậm chí đến tận nhà bắt đi không báo trước. Thông thường các gia đình chạy tiền để con em khỏi phải đi lính, cho con lẩn tránh hết đợt động viên lại về, hoặc ra hậu phương. Anh Nam biết mình cũng đang ở trong tầm ngắm, do tham gia tổ chức bãi khoá ở trường đại học, có người em cầm đầu nhóm nữ sinh Albert Sarraut kháng chiến, đã ra vùng tự do. Bản thân tôi cũng đã có lần bị sở Liêm Phóng gọi ra hỏi tại sao lại viết thư kể tin này nọ cho vài người bạn ở bên Pháp. Lúc đó tôi đang nội trú ở Bệnh viện Phủ Doãn. Chẳng có lý do, căn cứ gì cụ thể để buộc tội và giam giữ, và cũng do phong trào đấu tranh mạnh mẽ đòi thủ hiến chính quyền Hà Nội tạm bị chiếm thả những người bị bỏ tù vô căn cứ, bọn mật thám đành thả tôi về bệnh viện. Có lẽ tôi chẳng phải là một đối tượng gì ghê gớm. Chúng gọi tôi đến xét hỏi, hẳn chỉ là răn đe.
Trước các cuộc bắt lính ngày càng nhiều và mở rộng, anh Nam, đang học Đại học khoa học (khoa Toán-Lý-Hoá), quyết định sang Pháp du học. Quyết định đó được bố chồng tôi ủng hộ: Ông muốn tránh cho anh những cuộc vây ráp bắt đi lính, và cũng muốn anh làm xong bằng cử nhân khoa học. Đó là vào mùa thu 1952, tôi vừa tốt nghiệp bác sỹ được khoảng ba tháng.
Anh Nam tới Paris vào đầu tháng 9/1952, và báo tin cho tôi biết đã đăng ký được vào học khoa Toán Cơ (Mécanique Rationnelle) trường Sorbonne, Đại học đường Paris tháng 10/1952.

BỆNH VIỆN ĐẶNG VŨ LẠC - ĐI PHÁP HỌC CHUYÊN KHOA NHI
Ở Hà Nội tôi đang chờ trường y cho biết trả lời của Đại học Y khoa Paris về việc tiếp nhận tôi vào học chuyên khoa nhi. Trong khi chờ, tôi làm việc cho bệnh viện Đặng Vũ Lạc, khi đó là một bệnh viện tư đa khoa, thuộc loại có quy mô, tổ chức và trang thiết bị tốt nhất Hà Nội (sau là Bệnh viện B Hà Nội, rồi Việt Nam - Cuba, và nay là Bệnh viện tim Hà Nội, ở số 92 phố Trần Hưng Đạo). Uy tín của bệnh viện có được từ thời bác sỹ Đặng Vũ Lạc sáng lập, dựa vào danh tiếng, kinh nghiệm, chất lượng chẩn trị của những bác sĩ, giáo sư đầu ngành được mời tới đây làm việc ngoài giờ, như bác sỹ Đặng Văn Chung, Phạm Khắc Quảng, Đinh Văn Thắng v.v. Bệnh viện do bà quả phụ Đặng Vũ Lạc - nữ hộ sinh kỳ cựu, và con gái bác sỹ Đặng Vũ Lạc - chị Đặng Thị Ánh, học sinh cũ trường Sarraut, điều hành. Từ 1953 - 1954, trong ban quản trị có thêm bác sỹ Phạm Văn Diễn làm giám đốc bệnh viện.
Đội ngũ y tá, các khoa phòng, xét nghiệm viên, công nhân đều được tuyển chọn kỹ lưỡng. Các bác sỹ hành nghề ở đây được trả thù lao theo thỏa thuận, hưởng lương tháng cố định hoặc theo số lượng bệnh nhân tới khám, xét nghiệm chuyên khoa hoặc theo hạng mục can thiệp phẫu thuật (thường mổ đẻ, đặt forceps).
Tôi có một phòng khám riêng ở đây, làm việc ngày hai buổi (vì không làm ở bệnh viện công) và hưởng lương tháng. Tuy tôi mới ra trường, nhưng nhanh chóng số bệnh nhân đến với tôi, chủ yếu là phụ nữ với trẻ em, cũng đủ cho tôi làm từ sáng tới chiều. Nhà ở tôi ở phố Crevost, gần bệnh viện [2], nhưng hàng ngày có ô tô bệnh viện đưa đón tôi đi làm [3].
Trong ba tháng làm việc ở bệnh viện Đặng Vũ Lạc, tôi đã dành đủ tiền mua vé máy bay và chi phí ban đầu để sang Pháp. Giữa tháng 10/1952 trường y Hà Nội thông báo tôi đã được Đại học Y khoa Paris chấp nhận vào học, lấy chứng chỉ về nhi và dưỡng nhi tại trường dưỡng nhi với sự đồng thuận của giáo sư Marcel Lelong, hiệu trưởng. Thông báo yêu cầu tôi phải có mặt trước ngày 15/11/52 để làm thủ tục tựu trường.
Tôi gấp rút chuẩn bị hành trang lên đường. Mẹ chồng tôi băn khoăn sao tôi không mang theo chăn bông “vì bên Tây lạnh lắm”. Tôi phải trấn an: “Mợ yên tâm, anh Nam biên thư về đã lo đủ cả rồi”.
Đưa tôi ra sân bay có anh Trịnh Văn Du, bạn anh Nam, chủ một hiệu sách ở phố Tràng Thi, nghe nói là cơ sở hoạt động của cán bộ nội thành.
Tôi tới Paris ngày 4/11/1952. Anh Nam ra đón tôi tại sân bay Orly và đưa tôi về khách sạn 1 phố Racine, nơi anh đã thuê một phòng nhỏ làm nơi trú ngụ của hai chúng tôi trong suốt thời gian ở Pháp.
(Còn tiếp)
Chú giải của N.Đ.Đ.
_________________
[1] Hai người trong khóa này, Vũ Thị Chín và Nghiêm Thị Thuần, là hai phụ nữ Việt Nam đầu tiền tốt nghiệp bác sỹ tại Đại học Y khoa Hà Nội. Hai năm sau đó, bác sỹ Nghiêm Thị Thuần đã di cư vào Nam (năm 1954), rồi từ miền Nam Việt Nam sang Canada, nơi bà qua đời vào năm 2020 ở tuồi 97.
[2] Nhà số 10 phố Crévost (số 10 phố Thiền Quang ngày nay) cách bệnh viện Đặng Vũ Lạc (bệnh viện Tim ngày nay, ở 92 Trần Hưng Đạo) 550 m. Đi bộ từ nhà tới bệnh viện, dọc theo phố Yết Kiêu, mất 7 phút.
[3] Theo lời GS Trần Kim Đan, cháu ngoại bác sỹ Đặng Vũ Lạc, đó là một chiếc xe ô-tô Peugeot màu đen.
--------------------