Mr. Dậu
Người phá đò sông Đà


Nếu Kennedy tìm kiếm cho một giải pháp giữ thể diện và an toàn chính trị trong nước nhằm ra khỏi Việt Nam, thì Diệm và Ngô Đình Nhu lại cho ông ta một cái cớ như thế trong mùa xuân và hè 1963 bằng một loạt các cuộc tấn công vào những Phật tử. Trong ý thức của mình, Diệm đã xem những người di dân Thiên Chúa giáo từ miền Bắc vào là cốt lõi của hệ thống của ông ta, và chính quyền ông ta đã từ chối các Phật tử - những người chiếm đến 80% dân số - các quyền bình đẳng vào công việc và dịch vụ chính phủ. Việc chọc giận Phật tử này tăng lên nhanh chóng vào các năm 1962-63, và nó bùng nổ vào ngày 8-5-1963 khi quân đội của Diệm nổ súng vào một đám đông Phật tử đang ăn mừng ngày Phật đản bằng cách treo cờ Phật giáo – luật của chính quyền Diệm cấm bất cứ cờ xí nào ngoại trừ cờ chính quyền. Nhiều tuần sau đó, trong các thành phố trọng yếu ở miền Nam, sinh viên đổ ra đường để ủng hộ Phật giáo chống lại phân biệt đối xử. Nhu, càng ngày càng có quyền lực hơn trong chính quyền và là kẻ chủ mưu đằng sau vụ bạo động tháng 5, đã đối phó bằng những đợt càn quét vào các chùa chiền, bắt bớ có hệ thống, và dùng luật rừng, tất cả đều bị phản ứng lại bằng nhiều cuộc diễu hành và tự thiêu hơn nữa. Đó là một chu trình tự lặp lại trong những tháng sau đó. Các quan chức Mỹ cảm thấy khó chịu và bực mình với hành động đàn áp và với sự đồng ý ngầm của Nhu. Sự tức giận của họ càng tăng lên khi bà vợ xa hoa của ông ta, Madame Nhu, công khai và trơ trẽn tuyên bố rằng những vụ tự thiêu là “thịt nướng” và đề nghị tặng thêm xăng và diêm quẹt cho những vụ khác. Mà không phải chỉ có những chiến lược dã man của Nhu với Phật tử mới làm các quan chức Mỹ đau đầu. Đáng ngại không kém là những báo cáo về việc Nhu có thể đang tìm kiếm một cuộc thương lượng với Hà Nội. Trong vài tháng, Nhu đã vài dịp phàn nàn về việc có quá nhiều người Mỹ ở Nam Việt Nam, rằng người Mỹ sẽ không bao giờ hiểu được lối sống của người Việt Nam, và rằng sẽ tốt hơn nếu một nửa số người Mỹ ở Việt Nam về nhà. Vào tháng 7 và 8 năm 1963, ông ta lại lặp lại những tuyên bố này và nói với vài người rằng công ta đã bắt đầu liên lạc với đại diện của VNDCCH.
Ví dụ, vào ngày 10-08, trong những cuộc nói chuyện với các nhà ngoại giao Anh quốc, Nhu đã nói về việc gặp gỡ thường xuyên với những thành viên của thế hệ “Điện Biên Phủ” ở Bắc Việt. Có một số đáng kể những cá nhân yêu nước ở Hà Nội vốn là những người yêu nước trước và sau đó trở thành ********, Nhu nói, những người ở vào độ tuổi 40 và chiến đấu chống lại người Pháp, sau đó tự nhiên sẽ trở thành phe của Hồ Chí Minh vì ông ta (Hồ Chí Minh) cung cấp được lực lượng và tổ chức để mang lại độc lập. Đó là những người chính đáng tìm kiếm một giải pháp Việt Nam cho vấn đề Việt Nam và, Nhu thêm vào, “tôi có một số trong đó đang ngồi ở phòng này”. Những tuyên bố của Nhu về sự hiện hữu của các mối liên lạc Bắc-Nam càng đáng tin hơn khi người ta nghĩ về việc một trong những mối quan tâm của Bắc Việt quả là tìm hiểu về suy nghĩ của người lãnh đạo ở chính quyền phía Nam. Những chứng cứ có sẵn cho thấy rằng trong giai đoạn này, Hà Nội đang rất mong muốn tìm kiếm một giải pháp thương lượng cho cuộc chiến này. Tại vài thời điểm vào năm 1962 và 1963, các quan chức Bắc Việt đã thể hiện hi vọng về một giải pháp như thế. Vì sao? Rõ ràng họ đã lí luận rằng, mặc dù Washington muốn can thiệp vào Việt Nam sâu hơn là Lào, nhưng chính quyền vẫn còn chần chừ chưa can thiệp trực tiếp vào cuộc chiến chống lại Việt Cộng. Kennedy, do đó, có thể sẵn sàng chấp nhận một giải pháp ngoại giao, mặc dù nó thật sự là một thất bại trá hình. Một giải pháp như thế sẽ cho phép Hà Nội đạt được một trong những mục tiêu cốt lõi của họ - tránh một cuộc đối đầu quân sự trực tiếp với Mỹ - và thỏa mãn những yêu cầu từ cả Bắc Kinh và Matxcơva rằng cuộc đối đầu sẽ không đi quá đà. Vào tháng 7-1962, Lê Duẩn đã hướng dẫn các lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa miền Nam tránh một sự leo thang chiến tranh bằng cách giữ các cuộc đụng độ chỉ ở vùng núi và nông thôn Nam Việt (những cuộc tấn công trực diện vào thành phố có thể mang đến việc Mỹ can thiệp trực tiếp vào chiến tranh ) và tìm cách thương thuyết cho một giải pháp thương lượng và sự rút quân của Mỹ.
Ngay cả khi Hà Nội đang mong ước cho một giải pháp chính trị, thì các quan chức của họ vẫn không sẵn sàng hoạt động tích cực lắm cho điều đó. Đến giữa năm 1963 Hà Nội đã có thể thỏa mãn về những thành công vang dội của cuộc nổi loạn ở miền Nam và những vấn đề ngập đầu của chính quyền Diệm. Hơn nữa, họ (Hà Nội) cũng không muốn cô lập hàng xóm phía bắc hùng mạnh của họ, Trung Quốc, bằng cách tỏ ra quá mong muốn đạt một thỏa thuận với một Nam Việt đang được Mỹ tài trợ. Những phát biểu công khai của họ năm 1963 thường lặp lại lời của Trung Quốc trong cuộc tranh cãi Trung-Xô – tức là, như một người Marxist-Leninist tốt, họ tuyên bố rằng Xôviết dưới thời Nikita Khrushchev đã chuyển từ ý thức thuần sang ủng hộ “chủ nghĩa xét lại” ở Yugoslavia và theo đổi “cùng tồn tại hòa bình” và “hòa bình thế giới”.