Giáo hội công giáo Rôma
Giáo hội Công giáo (Giáo hội Công giáo Rôma, hay Giáo hội Thiên chúa giáo La Mã) là một giáo hội thuộc Kitô giáo, hiệp thông hoàn toàn với vị Giám mục Giáo phận Rôma. Giáo hội Công giáo hiện là nhánh Kitô giáo lớn nhất, với trên một tỉ thành viên, chiếm hơn một nửa số Kitô hữu và 1/6 dân số thế giới.
Họ coi mình là giáo hội duy nhất do chính chúa Giêsu Kitô, thiết lập dựa trên các tông đồ của chúa Giêsu, giáo hoàng là người kế vị tông đồ trưởng Phêrô, còn các Giám mục là những người kế vị các tông đồ khác. Dưới sự lãnh đạo của Giáo hoàng, Giáo hội Công giáo xác định nhiệm vụ của họ là truyền bá Phúc Âm của chúa Giêsu Kitô, cử hành các bí tích và thực hành bác ái.
Được xem là một trong những tổ chức lâu đời nhất trên thế giới, Giáo hội Công giáo đã đóng vai trò nổi bật trong lịch sử nền văn minh Phương Tây. Đây cũng là tôn giáo được tổ chức lớn và chặt chẽ. Ngày nay, Giáo hội Công giáo hoàn vũ được chia thành nhiều giáo phận ở nhiều quốc gia, thông thường là trên cơ sở lãnh thổ hành chính; lãnh đạo mỗi giáo phận là một vị Giám mục chính tòa.
Chính thống giáo Cổ Đông phương
Chính thống giáo Cổ Đông phương và phần còn lại của Kitô giáo chia rẽ bắt đầu từ sự khác biệt về quan điểm Kitô học. Công đồng Nicea (325) tuyên bố rằng Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa, đồng bản thể với Đức Chúa Cha, và Công đồng Êphêsô đầu tiên (431) định tín rằng Đức Giêsu là một ngôi vị duy nhất: là Thiên Chúa trọn vẹn và là con người trọn vẹn (đây gọi là sự hiệp nhất ngôi vị).
Hai mươi năm sau công đồng Êphêsô, Công đồng Chalcedon tuyên bố rằng Đức Giêsu là một con người trong hai bản tính hoàn chỉnh: một bản tính con người và một bản tính thần linh. Những người phản đối Chalcedon cho rằng, điều này giống như học thuyết của dị giáo Nestorian đã bị kết án ở Êphêsô, rằng Đức Kitô là hai bản thể riêng biệt, một của Thiên Chúa (Ngôi Lời) và một của con người (Đức Giêsu).
Chính thống giáo Đông phương
Chính thống giáo Đông phương là nhánh Kitô giáo lớn thứ nhì trên thế giới, sau Giáo hội Công giáo Rôma. Đây là nhóm các giáo hội Kitô giáo đại diện cho truyền thống Kitô giáo Đông phương. Chính Thống giáo truy nguyên nguồn gốc của họ về Kitô giáo sơ khai và tuyên bố họ mới là sự tiếp nối duy nhất và chính thống của giáo hội do chúa Kitô thiết lập, xem chính mình là Giáo hội Duy nhất, Thánh thiện, Công giáo và Tông truyền.
Tín hữu Chính Thống giáo vẫn xem giáo hội của mình là truyền thống Kitô giáo trung thành nhất với các giá trị thần học bắt nguồn từ thời hội thánh tiên khởi. Giáo hội cấu trúc tổ chức bao gồm các giáo phận độc lập cùng chia sẻ một nền thần học, đặt dưới quyền cai quản của các Giám mục có nhiệm vụ bảo vệ các truyền thống giáo hội được lưu truyền từ Mười hai Sứ đồ qua quyền tông truyền, đặc biệt là Thánh Anrê.
Theo các ước tính, số tín hữu Chính thống giáo là từ 150-350 triệu người. Ước tính Belarus (89%), Bulgaria (86%), Cộng hòa Cyprus (88%), Gruzia (89%), Hy Lạp (98%), Macedonia (70%), Moldova (98%), Montenegro (84%), Romania (89%), Nga(76%), Serbia (88%), và Ukraina (83%). Tại Bosnia và Herzegovina, tỷ lệ này là 31%, tại Kazakhstan là 48%, tại Estonia là 13% và 18% ở Latvia. Thêm vào đó là các cộng đồng Chính thống giáo ở châu Phi, châu Á, Úc, Bắc Mỹ và Nam Mỹ.
Kháng Cách (Tin Lành)
Danh xưng Tin lành thường được dùng để chỉ một cộng đồng các giáo hội khởi phát từ cuộc cải cách tôn giáo (Kháng cách) bắt đầu vào thế kỷ 16 bởi Martin Luther. Khi đó, tại Âu châu, nhiều người có quan điểm tương tự như của Luther cũng bắt đầu tách khỏi Công giáo và thành lập các giáo phái khác nhau. Họ được gọi dưới một tên chung là Kháng cách, hay Tân giáo để phân biệt với cựu giáo là Công giáo Rome.
Cộng đồng Kháng cách bao gồm các giáo hội thuộc Cơ đốc giáo chấp nhận nền thần học của cuộc cải cách Kháng cách. Nền thần học này từ chối công nhận thẩm quyền của Giáo hoàng, với niềm xác tín rằng chỉ có kinh thánh là nguồn chân lý duy nhất, và tin rằng chỉ bởi ân điển của thiên chúa mà con người được cứu rỗi.
Thuật từ Kháng cách nghĩa là công bố, được dùng để chỉ thư kháng nghị của các vương hầu và đại biểu các thành phố thuộc thánh chế La Mã chống lại nghị quyết của hội nghị Speyer lần thứ hai năm 1529, nghị quyết này khẳng định lập trường của Hội nghị Worms chống lại cuộc cải cách Kháng cách. Lúc ấy, người ta gọi những người ủng hộ thư kháng nghị và lập trường cải cách là kẻ phản kháng. Từ đó, thuật từ Kháng cách, bao hàm nhiều ý nghĩa khác nhau, được dùng để chỉ Cơ đốc giáo phương Tây không công nhận thẩm quyền của giáo hoàng.
Trong ý nghĩa rộng lớn hơn, tên gọi Kháng cách dùng để chỉ các giáo hội khác nhau, tách khỏi Công giáo do chịu ảnh hưởng của Martin Luther và John Calvin, người lãnh đạo một cuộc cải cách tôn giáo khác tại Geneve, Thuỵ Sĩ, cũng là người khởi xướng phong trào Calvinist. Xuất hiện một nhóm khác trong thời kỳ cải cách, thường được gọi là cải cách cực đoan. Trong khi đó nhiều nhóm tôn giáo tách khỏi Công giáo cũng được gán cho nhãn hiệu Kháng cách dù họ phủ nhận mọi liên hệ với Luther, Calvin.