Đạo lý XAMVN Originals | Kinh Lăng Nghiêm (Śūraṅgama Sūtra - Mạnh nhất): Nguồn gốc, giáo lý, Bản chất và Vị trí của Tâm, Ma trận của Như Lai 🕉️ (P1/2)

Giới thiệu

Kinh Lăng Nghiêm (Śūraṅgama Sūtra) là một cuốn sách hướng dẫn toàn diện của Phật giáo Đại thừa, đưa người đọc đến với sự giác ngộ tâm linh theo con đường được mô tả trong những giáo lý cao cấp nhất của Đức Phật Thích Ca.
Nó trình bày đầy đủ chi tiết những hiểu biết, thực tập và những cạm bẫy mà các vị Bồ Tát nhiệt thành phải ý thức rõ khi bước đi trên con đường này. Bởi vì tính thực tế và triệt để của nó, đây thường là văn bản quan trọng đầu tiên mà các nhà sư Thiền tông (Chan/Zen) mới xuất gia được yêu cầu học tập ở Trung Quốc thời Trung cổ và đầu Cận đại. Kinh này ít được biết đến ở phương Tây hơn các kinh Đại thừa khác bởi nó rất khó hiểu nếu không có một vị thầy giỏi, chỉ có các bản dịch chưa hoàn thiện và không đạt tiêu chuẩn của bộ kinh sang các ngôn ngữ phương Tây lưu hành cho đến hiện nay, tính xác thực của nó gây nhiều tranh cãi, và nó rất dài và thiếu hình ảnh lôi cuốn như trong các kinh Đại thừa dài khác, chẳng hạn như Kinh Hoa Nghiêm. Tuy nhiên, nó vẫn là một văn bản quan trọng trong quá trình hình thành Phật giáo Thiền tông, đặc biệt là từ thời nhà Đường đến triều đại nhà Minh. Do ảnh hưởng của nó đối với sự phát triển của Thiền tông Trung Quốc (Chan) và sau đó là Thiền tông Nhật Bản (Zen), nó nhận được sự chú trọng của những người thực hành Thiền đương thời.

jFTDr2Pu.png


Bài viết nhập môn này xem xét lại nguồn gốc và lịch sử của Kinh, tuyến truyện và giáo lý của nó, ít nhất một vài giáo lý trong số đó được xem là không điển hình trong Phật giáo truyền thống.

Nguồn gốc và tóm lược lịch sử

Kinh được đề cập lần đầu tiên trong hai đầu mục do Zhisheng, một nhà sư Trung Quốc, xuất bản vào năm 730. Vì bản gốc và bản dịch của Kinh có sự khác biệt, nên vẫn chưa rõ ai là người đã thực hiện bản dịch gốc và được dịch từ (các) tài liệu tiếng Phạn nào, nếu có. Cả hai bản dịch được cho là đã diễn ra vào khoảng năm 705. Vì không tìm thấy bản sao gốc tiếng Phạn của Kinh và những giáo lý bất thường trong văn bản (được một số người gọi là giáo lý “phi Phật giáo”), nên nhiều ý kiến cho rằng đó là một ngụy kinh Phật giáo. Ngược lại, Ron Epstein, một người ủng hộ tính nguyên bản của Kinh, kết luận rằng “có vẻ như nguồn gốc của phần lớn tài liệu trong Kinh là từ Ấn Độ, mặc dù rõ ràng là văn bản đã được biên soạn ở Trung Quốc.” Bất luận nguồn gốc của Kinh, nó đã được nghiên cứu rộng rãi và là trọng tâm của hơn một trăm sách bình chú của các hành giả Thiền tông. Kinh tiếp tục là một văn bản chính yếu trong Thiền tông ngày nay, tuy nhiên, ngoại trừ ở Hàn Quốc, nó chưa bao giờ trở thành một văn bản đặc biệt quan trọng ở các khu vực khác của Đông Á và Đông Nam Á, có lẽ vì người ta cho rằng nó được các soạn giả Trung Quốc viết ra ở Trung Quốc.

Câu chuyện và các giáo lý

Kinh Lăng Nghiêm đề cập đến những nhận thức, thực tập và cạm bẫy cần phải nắm bắt trong khi bước đi trên con đường dẫn đến Giác Ngộ vào thời Mạt pháp, như Đức Phật Thích Ca đã truyền dạy.
Những lời dạy này xoay quanh cuộc đối thoại giữa Đức Phật và người em họ của Ngài là Ananda. Để ngắn gọn, ở đây diễn biến câu chuyện được chia thành phần mở đầu và mười phân đoạn. Như các độc giả chuyên sâu sẽ nhận ra, Kinh chứa các yếu tố giáo lý của Duy thức tông, Trung quán tông, và Phật giáo Mật truyền và một lối diễn giải biến hóa về Phật tính.

60tLkh7.png


Phần mở đầu

Kinh mở đầu, Đức Phật đang dự tiệc do vua Prasenjit chủ trì ở thành phố Shravasti khi kết thúc một khóa tu mùa hè. Hơn một ngàn nhà sư lớn tham dự, cùng với các cư sĩ, tất cả đều mong muốn được Đức Phật chỉ dạy để tháo gỡ những thắc mắc về con đường dẫn đến sự Tỉnh thức Đích thực. Chỉ có Ananda, em họ của Đức Phật, vắng mặt. Trước đó ông đã đi qua thành để chấp nhận một lời mời đặc biệt và trên đường trở về, khi đi ngang qua một nhà chứa, ông bị rơi vào cạm bẫy phù phép của một phụ nữ trẻ có ý định quyến rũ ông. Đức Phật từ xa biết rằng Ananda đang bị dính bùa chú, nhanh chóng quay trở lại cơ sở tu viện của mình. Ngài ngồi xuống, từ đỉnh đầu của mình Đức Phật đã làm xuất hiện hình ảnh của một vị Phật an tọa và niệm một câu chú có sức mạnh tâm linh, Chú Lăng Nghiêm. Sau đó, Đức Phật cử Manjusri, một vị Bồ tát cấp cao, đi để bảo vệ Ananda bằng sức mạnh của thần chú, và để đưa ông ấy và người phụ nữ trẻ trở lại nơi Đức Phật cư ngụ.

Trong phần Mở đầu, mày học được rằng: Những người đã chứng ngộ không có những dòng chảy hướng ngoại (dòng chảy của ham muốn, sinh tồn và vô minh); những tu sĩ có định lực chưa đủ mạnh luôn nên đi ít nhất với một người để tránh xa những cám dỗ; các nhà sư không nên nhận những lời mời riêng biệt, mà nên đi cùng các thành viên khác của Tăng đoàn; chấp nhận bố thí như thế nào và ở đâu; và Chú Lăng Nghiêm là vua của các thần chú, mặc dù bản thân nội dung của thần chú vẫn chưa được tiết lộ trong Kinh.

YQmfsvj.png


Phần 1: Bản chất và Vị trí của Tâm

Khi Ananda nhìn thấy Đức Phật, lúc đó Ngài vẫn đang ngồi trước đại chúng, ông cầu xin Đức Phật giải thích cho ông các bước dẫn đến Tỉnh thức. Sau đó, Đức Phật nói với ông ấy về định Lăng Nghiêm (Śūraṅgama Samādhi) mà tất cả các vị Phật đều đi qua trên con đường đến Tỉnh thức. Ananda đã không thể chống lại bùa mê của người kỹ nữ bởi ông thực hành nhập định chỉ bằng Tâm Trí (the conscious mind) của mình, vì ông quan tâm nhiều hơn đến việc hiểu Pháp hơn là việc thực tập thiền định. Để thực hành định Lăng Nghiêm, một người phải đặt nền tảng cho sự tu tập của mình trên Chân Tâm (the true Mind), cái không sinh, không diệt. Để làm sáng tỏ sự khác biệt, Đức Phật đã tham gia một cuộc thảo luận dài về vị trí của Tâm và bản chất của nó để minh họa sự khác biệt giữa tâm trí bị điều kiện hoá, bị vướng mắc trong những nhận thức ảo tưởng và Chân Tâm. Trong khi tâm trí thì có sinh và diệt, Chân Tâm là vĩnh cửu. Vì hầu hết mày chỉ ý thức về tâm trí của mình, nên mày vẫn bị mắc kẹt trong vòng luân hồi (của sinh-tử bất tận).

Mấy tml học được trong phần đầu tiên này của Kinh rằng: Học Pháp trước hết là không đủ, vì một người cần phải tinh thông thiền định ở mức tương đương; Một người hay chữ không có nghĩa là người đó không có những dòng chảy hướng ngoại; Mấy tml thất bại trong tu tập của mình khi mày nhầm lẫn giữa tâm trí và Chân Tâm vĩnh cửu, do đó tự mở mình ra với những suy nghĩ si mê; Trong suy nghĩ si mê, một người sẽ phân chia các trải nghiệm thành tốt và xấu, đúng và sai, nhưng trong Ma trận của Như Lai (xem Phần 3 bên dưới), không có sự phân biệt như vậy. Bằng cách ý thức về Chân Tâm của mình, tao có thể ý thức đầy đủ về vị Phật (Phật tính) vốn hiện hữu trong tao; Khi mày có thể thấy rằng toàn bộ thế giới của các đối tượng tri giác chỉ là Tâm, thì các đối tượng tinh thần sẽ không còn sinh và diệt. Xuyên suốt bài học, Đức Phật sử dụng suy luận hợp lý, thay vì chỉ đơn thuần tuyên bố rằng một số lập trường là đúng bởi vì Ngài tuyên bố chúng là đúng. Phương thức thuyết giảng này là một đặc điểm riêng biệt của Kinh Lăng Nghiêm.

Phần 2: Bản chất của Nhãn thức (Nhận thức Thị giác)

Sau đó, bằng việc sử dụng nhãn thức như một ví dụ về sáu giác quan, Đức Phật mô tả chi tiết bản chất của chân ý thức, thật ra lại là chân thực tại mà bản thân nó chính là chân không (true emptiness). Mặc dù về cơ bản không có bất cứ thứ gì ở ngoài kia và trong đây, Đức Phật giải thích rằng trải nghiệm của chúng ta về những điều có vẻ như là một thế giới bên ngoài thực chất chỉ là trải nghiệm về những hình ảnh được tạo ra trong Tâm, Kinh gọi điều này là “những sự kiện tinh thần mờ ảo”. Những hình ảnh này xuất hiện khi sự tập trung trong định của chúng ta bị dao động. Luận đầu tiên trong tứ đoạn luận của kinh xuất hiện trong phần này khi Đức Phật lập luận rằng một mặt, bản chất của nhãn thức và các đối tượng hữu hình của ta là như nhau, mặt khác chúng không giống nhau. Phong cách lập luận này dựa trên giả định rằng con người sống trong hai thế giới, một thế giới thông thường hàng ngày bị điều kiện hoá và một thế giới tính không trừu tượng. Trong khi các sự đối lập có thể tồn tại ở thế giới thứ nhất, thế giới thứ hai không thừa nhận nhị nguyên.

sun-wukong-hand.gif


Những lời dạy khác trong Phần 2 là: Khi mày tàn lụi như một thực thể vật chất, một điều gì đó trong mày sẽ không mất đi (Phật tính), vì nó sẽ tiếp tục đi vào một cơ thể khác; Nếu mày chỉ nghe Pháp với tâm bị điều kiện hoá, mày sẽ không hiểu được bản chất thực của nó; và trong khi các vị Phật và các thực thể tâm linh cấp cao khác có sức mạnh tâm linh Thiên Nhãn Thông và có thể nhìn (nghe, v.v.) thấy khắp mọi nơi mà không gặp trở ngại, thì nhận thức thị giác của người chưa giác ngộ bị cản trở vì họ chỉ nhìn thông qua các giác quan (mắt, tai, mũi, v.v.) của cơ thể vật lý của họ.

Phần 3: Ma trận của Như Lai

Trong Phần 3, Đức Phật soi xét chi tiết hơn ý nghĩa của câu nói rằng những suy nghĩ của chúng ta và những đối tượng chúng ta nhận thức là không thật và hư ảo, mặc dù chúng vẫn nằm trong sự giác ngộ cốt yếu, huyền diệu. Trong phần khá dài này, Đức Phật sử dụng năm Uẩn, sáu Đại, mười hai Xứ, mười tám Giới, và bảy yếu tố chính làm chủ đề thuyết giảng. Vẫn tập trung thảo luận của mình trong phạm vi lý luận Phật giáo, Đức Phật kết luận ở cuối cuộc thảo luận của Ngài về mỗi yếu tố trong mỗi đề mục (sử dụng sắc uẩn làm ví dụ) như sau: “Vì vậy, mày nên biết rằng sắc uẩn là một ảo giác. Nó không hình thành từ các nguyên nhân và các điều kiện, cũng không phải tự nó hình thành.” Trong phần này, Đức Phật cũng phân giải những điều dường như không nhất quán trong giáo lý của Ngài, giải thích rằng chúng là hệ quả của việc giảng dạy cho những người có khả năng hiểu thấp hơn. Ngài kết luận rằng Kinh Lăng Nghiêm là giáo lý tối thượng. Ngài cũng nhắc lại rằng trong khi cơ thể vật lý chết đi, Phật tính vốn có trong mày sẽ tiếp tục sống, vì vậy mày nên tìm hiểu sâu về Phật tính hơn là cơ thể vật lý. Ở cuối phần 3, Ananda đã nguyện sẽ đạt đến giác ngộ để có thể trở lại và cứu vớt những người khác khỏi vòng luân hồi bất tận.

insomnia-cant.gif


Source: mnzencenter.org
1. The 2009 translation of the Sutra by the Surangama Sutra Translation Committee of the Buddhist Text Translation Society is considered the best and most improved translation in English currently available. A long sutra, the Chinese language text consists of some 63,000 characters in ten rolls. For a sampling of discussions about the Sutra from different perspectives, see Low (2000), Fischer (2001), Epstein (1975), and the “Surangama Sutra” entry in the Wikipedia. Also see the “Shurangama Sutra: Text, Commentaries, and Articles” Web site compiled by Ron Epstein.

2. Though obscure in the West, Surangama Sutra scholar David Rounds (2007:75) refers to the Sutra as one of “the world’s religious masterpieces” and extolls the beauty of its language in Chinese.

3. Chinese Buddhist apocrypha are text composed in China by Chinese authors. See Bushwell (1990). For details in the Sutra that make it an apocrypha for some, see Benn (2008).

4. Epstein (1976).

5. According to the Sutra, Buddhism has gone through three periods of declining vitality: the time of the right Dharma when the Buddha was in the world to 1,000 years afterward (c. 500 BCE –500 CE); the time of the semblance of the Dharma then began, which lasted 1,000 years as well (c. 500 – 1500 CE); and the time of the Dharma’s ending, which we are in now and during which people devote themselves to fighting. However, when we sit in meditation and study the sutras, we make the time of the right Dharma appear within the time of the Dharma’s ending. Despite the problem of math here, the point is that in these difficult times the right and true practice must be followed, which is the Surangama samadhi, as taught in the Surangama Sutra.

6. The divisions of the storyline used here are from the Synopsis in the 2009 translation of the Sutra by the Surangama Sutra Translation Committee of the Buddhist Text Translation Society. For other overviews of the Sutra, see Suzuki (2010) and especially Rounds (2007).

7. For Yogacara and Madhyamika Buddhism, see the primers in this series. Esoteric Buddhism is a general term for certain practices originally developed in parallel with Hindu tantra. Among other things, practice involves the establishment and spiritual fortification of a special place of practice and the use of ritual formulae (mantras), gestures (mudras), and visualization techniques. For overviews, see Payne (2006) and Orzech (2011). In early Buddhist thought, Buddha-‐nature refers to the potential to become a Buddha through study and religious practice. After the rise of Mahayana Buddhism, Buddha-‐nature came to be seen as the inherent Buddhahood of any sentient being. In this setting, the task is not to achieve Buddhahood, but to uncover it, for each being is already a Buddha. Under the influence of Tathagata-‐garbha teachings, Buddha-‐nature came to be seen further as a more substantial presence endowed with positive attributes, often termed ‘atman’ (self or soul), as in sutras like the Mahayana Mahaparinirvana Sutra. In the Surangama Sutra, it is from the Matrix of the Thus-‐Come One (thus in Sanskrit Tathagata-‐garbha, the “womb of the Buddha”) that the world and the mind come forth; it has no self, intention, or personality – it is, at least in this Sutra empty, though Buddha-‐ nature passes through successive life forms. See King (1991).

8. Mantras are sacred sounds believed to be imbued with supernatural powers. In the Surangama Sutra, the recitation of the Surangama Mantra is a means of protecting and empowering the mind of oneself or others. This is an aspect of esoteric Buddhism in the Sutra.

9. In Mahayana Buddhism, states of deep trance (forms of samadhi) occur at a vast number of levels. According to the Sutra, the Surangama samadhi is the highest of these levels. Its attainment gives those who attain it the ability to manifest specific miracles. Again, another aspect of esoteric Buddhism in the Sutra. For a general overview, see Shankman (2008).

10. Synonyms of the Matrix of the Thus-‐Come One are the Thus-‐Come One, true reality, our true mind, the suchness of reality, the reality of the universe, the awakened nature of our awareness, and the Tathagata-‐garbha, among others, all of which are epithets of the Buddha.

11. For a brief introduction to Buddhist logic in the context of this Sutra see Rounds (2007:276-‐279). For the tetralemma, see the Madhyamika Buddhist primer in this series. It is important in reading the Sutra to keep in mind that the discussion is a series of logical arguments. Confusion for Western readers often occurs when encountering a tetralemma, for it allows the presence of both something and its absence (both A and not-‐A), for something may be present in the conditioned world (A) but not in the Absolute world which is empty of dualities (not-‐A).

12. This notion of an ever-‐lasting ‘self’ (a Buddha-‐nature) that moves from one body to another is a controversial teaching of some Chinese Buddhist sutras, as mentioned in footnote 7 above.

13. Another expression for the Matrix of the Thus-‐Come One or true reality.

14. The five aggregates consist of form, sense-‐perception, cognition, mental formations, and consciousness. The six faculties are eye, ear, nose, tongue, body, and cognitive faculty. The twelve sites are the eye faculty and visual objects, the ear faculty and sounds (etc.). In the eighteen constituents the six faculties are matched to the six sense-‐objects, and between them are produced the six consciousnesses (the eye consciousness, etc.). The consciousnesses are what make distinctions.



References (Không dịch)​

Anon. Surangama Sutra. Wikipedia. Downloaded from the Web 8/14/2-‐17.

Benn, James A. 2008. Another Look at the Pseudo-‐Suramgama sutra. Harvard Journal of Asiatic Studies, 68(1), pp. 57-‐89.

Bushwell, Robert E. 1990. Chinese Buddhist Apocrypha. Honolulu: University of Hawaii Press. Epstein, Ronald. 1975. Ananda’s Search for the Mind in Seven Locations. Vajra Bodhi Sea, March, pp.

17-‐23.

Epstein, Ronald. 1976. The Shurangama Sutra: A Reappraisal of Its Authenticity. Downloaded from the Web on 8/16/2017.

Fischer, Norman. 2001. Surangama Sutra. A series of talks on the Everyday Zen Foundation Web site. King, Sallie B. 1991. Buddha Nature. Albany: State University of New York Press.

Low, Albert. 2000. The Surangama Sutra. In Zen and the Sutras, pp. 135-‐154. Boston: Tuttle. Orzech, Charles D. (gen. ed.). 2011. Esoteric Buddhism and the Tantras in East Asia. Leiden, The

Netherlands: Brill.

Payne, Richard K. 2006. Tantric Buddhism in East Asia. Somerville, MA: Wisdom.

Rounds, David. 2007. Rescuing Ananda – An Overview of the Surangama Sutra. Religion East & West

issue 7, October, pp. 75-‐95.

Rounds, David. 2014. An Editorial Approach: The Surangama Sutra. Religion East & West, Issue 12, January, pp. 7-‐18.

Shankman, Richard. 2008. The Experience of Samadhi: An In-depth Exploration of Buddhist Meditation.

Boston: Shambhala.

Surangama Sutra Translation Committee. 2009. The Śūrangama Sūtra: With Excerpts from the Commentary by the Venerable Master Hsuan Hua: A New Translation. Burlingame, CA: Buddhist Text Translation Society.

Suzuki, D. T. 2010 [1950]. The Ryogonkyp, or Surangama Sutra. In Manual of Zen Buddhism, 2nd ed.

CreateSpace Independent Publishing Platform.

Ven. Master Hsuan Hua. 1981. Shurangama Mantra Verses and Commentary, in 5 vols., trans.

Buddhist Text Translation Society. Talmage, CA: Dharma-‐Realm Buddhist University. Ven. Master Hsuan Hua. 1996. The Surangama Sutra: Fifty Skandha-Demon States, A Simple

Explanation by the Ven. Master Hsuan Hua
, bilingual edition. Burlingame, CA: Buddhist Text Translation Society.

 
Sửa lần cuối:
Dharma là Pháp đúng không? Tao cũng không biết sao bài gốc lại dùng Matrix, chắc vì chỉ để ám chỉ thực tại, ảo ảnh. Dharma hàm ý rộng lớn hơn.
Mới đi chơi về, giờ mới rảnh để trả lời.

Ừ Dhamma phiên âm là Pháp.

T mới suy nghĩ lại thuật ngữ matrix, vì nó xài tiếng Anh nên không rõ cái từ gốc nó nói gì và muốn biểu thị cái gì.

Tìm hiểu sơ sơ thì đây : "Việc sử dụng từ "ma trận" ở đây nhằm nhấn mạnh rằng giáo lý của Đức Phật không chỉ đơn giản là những lời dạy rời rạc, mà là một hệ thống chặt chẽ, trong đó các yếu tố liên kết và tương tác với nhau một cách tinh vi. Sự tương tác này tạo nên một "ma trận" – một mạng lưới phức tạp giúp người tu hành hiểu rõ hơn về bản chất thực sự của thực tại và con đường dẫn đến giác ngộ."

Có lẽ nói về giáo lý Duyên Hệ đan xen lẫn nhau. Nhìn qua lược đồ là có thể thấy được sự phức tạp đó :

bMMSH1.jpg
 
Sơ lược về thuật ngữ Dharma :

" Ví dụ, một định nghĩa được truyền lại trong A-tỳ-đạt-ma Câu-xá luận (Abhidharmakośabhāṣya) ghi rằng: “Pháp (dharma) có nghĩa là ‘duy trì’, tức là duy trì tự tính (svabhāva),” và Đại Tỳ-bà-sa luận (Mahāvibhāṣā) tuyên bố rằng: “Tự tính có khả năng duy trì bản sắc riêng của nó mà không đánh mất nó […] như trong trường hợp các pháp vô vi có thể duy trì bản sắc riêng của chúng” (Cox 2004A, 558–559).

Tương tự, một định nghĩa phổ biến trong các chú giải A-tỳ-đạt-ma của Thượng Tọa Bộ là: “Các pháp (dhammas) được gọi như vậy vì chúng mang tự tính của mình, hoặc vì chúng được duy trì bởi các điều kiện nhân quả” (ví dụ: Dhs-a 39–40; Paṭis-a I 18; Vism-mhṭ I 347). Các bản chú giải cũng thường xuyên đồng nhất dhammas với tự tính của chúng, sử dụng hai thuật ngữ dhammasabhāva thay thế cho nhau.

Ví dụ, Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) khẳng định rằng: “Dhamma chỉ đơn thuần là tự tính” (Vism VIII 246), và phần tiểu chú giải của Pháp tụ luận (Dhammasaṅgaṇi) chỉ ra rằng: “Không có thứ gì khác gọi là dhamma ngoài tự tính mà nó mang” và rằng: “Thuật ngữ sabhāva chỉ đơn thuần biểu thị thực tế của việc là một dhamma” (Dhs-mṭ 28 & 94; xem thêm Karunadasa 2010: Ch. 1).

Những định nghĩa chú giải này về dhammas như là những gì mang tự tính của chúng không nên được hiểu theo nghĩa bản thể học, rằng các pháp là những thực thể có sự tồn tại nội tại. Gethin (2004, 533) cảnh báo rằng các chú giải Pali “thường bị xem xét quá nhiều dưới ánh sáng của những tranh luận sau này về trạng thái bản thể học chính xác của các pháp, cũng như sự phê phán của Trung Quán (Madhyamaka) đối với khái niệm svabhāva theo nghĩa ‘tồn tại cố hữu.’”

Thực tế, định nghĩa các pháp là mang tự tính của chúng truyền tải ý niệm rằng không có một tác nhân trường tồn nào đứng sau chúng. Hơn nữa, việc bổ sung rằng các pháp được duy trì bởi các điều kiện nhân quả nhằm bác bỏ ý tưởng về một tự tính tồn tại nhờ vào một thực thể nền tảng nào đó tách biệt với chính nó.

Cũng như các pháp là những sự kiện tâm-vật lý phát sinh tùy thuộc vào các điều kiện và phẩm chất thích hợp, tự tính của chúng cũng sinh khởi một cách phụ thuộc, chứ không dựa vào một thực thể nền tảng nào có tính thực hơn chính chúng (ibid; Karunadasa 1996, 13–16; Nyanaponika 1998, 40–41)."
 
Sửa lần cuối:
Bạng nói quá hay, nếu cao siêu vậy thì bạng, ẳng ẳng.

bạng học giáo lý mà bạng đi công kích cá nhân tao với những từ ngữ như trên à, học giáo lý, ẳng ẳng.

bạng đừng nói đến tái sinh nữa, cái gì xây dựng trên nền tảng triết học tái sinh, và phải chấp nhận có nghiệp, có tái sinh thì mới nói chuyện tiếp.

bạng nói đến vi diệu pháp, những cái đó cũng giải thích cơ chế của việc tái sinh cái đó tao đọc rồi bạng.

thứ nhất, khi việc tái sinh chỉ là một thuyết không có kiểm chứng và chưa có tính phổ quát thì cái gì lấy tái sinh làm gốc rễ đều không thỏa mãn yêu cầu về sự thật.

ví dụ: chúng ta xây một cái nhà để che được mưa,

về mặt lý thuyết, giả định tồn tại cái nhà có thể che mưa phải được xây dựng trên một nền tảng đó là tồn tại một vật liệu chống nước, hoặc có thể tạo ra được một loại vật liệu chống thấm nước thì căn nhà mới có thể tồn tại trên lý thuyết.

xoay lại vấn đề về học thuyết, hay cách giải thích của phật về đời sống, phật thừa nhận rằng, có tái sinh, và luân hồi, và việc tái sinh là nền tảng cho giáo lý của ngài, điều này m phải công nhận đúng chứ.

trong phật giáo, việc tái sinh và luân hồi là nền tảng đầu tiên và được công nhận như một chân lý không cần phải kiểm chứng vậy, như vậy tất cả học thuyết này xây dựng trên giả định ( có sự tái sinh thực tế ), nhưng các bằng chứng có thể chứng minh tái sinh này là không có, và m có biết một sự thật thú vị là gì không. Truyền thống tái sinh này Phật cũng được học từ đạo bà la môn chứ đâu ra, đây là một truyền thống triết học phát triển rộng rãi trong thời đức phật còn sống.

Thập nhị nhân duyên là chuỗi nhân quả, áp ngay trong cái đời khốn khổ này cũng xong: mày ngu thì mày làm bậy, làm bậy thì mày khổ, đơn giản như đếm 1 2 3, cần gì kiếp sau để ngấm? Trong Luận tạng/Tạng Vi Diệu Pháp và nhiều người phân tích rõ cả rồi, không cần tái sinh vật lý vẫn hiểu, vậy mà mày cứ như thằng mù sờ voi xong hét lên "voi là cái chổi xề". Giáo lý trong Chánh pháp.

Không cần tái sinh thì thập nhị nhân duyên không cần phải có hay không, bởi nếu không có tái sinh thì mục đích tu tập ngay từ đầu là không cần thiết, bởi đâu cần phải giải thoát một thứ không hề có tái sinh đúng chứ. Như vậy ở đây tồn tại một vấn đề mâu thuẫn:

sẽ có hai hướng triển khai cái mong luốn của phật:

1. Phật dạy con người đạt được hạnh phúc trong hiện tại, mà không cần phải quan tâm đến vấn đề tái sinh, và vấn đề tái sinh này là không có thật, hay nói cách khác là không thể giải thích.

2. Phật phải thừa nhận rằng có sự tái sinh, như vậy việc tái sinh này ảnh hưởng đến triết lý của đức phật, và trong kinh điển ở rất nhiều bài kinh đều nói tới việc này.

mà đừng đem bạng @dungdamchemnhau hay bất cứ một bạng nào khác vào đây trong câu chuyện này, hãy phản biện và đưa cái tri thức của chính bạng vào đây mà giải thích.

Tiếp theo, tao cũng chẳng phải cay cú gì đâu bạng, cuộc tranh luận này nó chẳng là cái gì quá quan trọng đâu, nó làm tao thấy rằng, khi tao nói về một điều mà những thằng khác tôn thờ như một loại đời sống tâm linh thực thụ. Thì nó sẽ sẵn sàng chửi bới tao thôi.

hành vi của bạng, có khác gì một con chiên khi tao nói rằng không có thượng đế tồn tại hay không, trong cuộc bình luận này có lẽ chỉ có mỗi mình bạng cay cú, thật ra nếu sử dụng những từ ngữ như bạng, lúc mới đọc vào thì cũng nóng máu thật, nhưng nó cũng chỉ là sự thoảng qua mà thôi, nó chẳng có ý nghĩa gì cả.

con người có hạn chế của chính mình, và thông qua đàm luận, dẫn nhập thì sẽ hiểu, còn thằng @dungdamchemnhau hay bất kỳ một thằng nào khác ngoài cuộc tranh luận này tham gia vào nó chẳng có ý nghĩa gì cho cuộc tranh luận cả,

Phật giáo là một mô hình triết học đã phát triển hàng ngàn năm, các luận sư đã phát triển nền tảng triết học của phật giáo lên một tầm cao vô cùng cao, cái này tao biết. Nhưng việc đọc nhiều kinh điển, nhiều bài luận thì có ý nghĩa gì khi trong cuộc tranh luận này, bạng toàn sử dụng các từ ngữ miệt thị kẻ khác, nó chẳng có ý nghĩa gì với cả tao và bạng.

ẳng ẳng,

Mở cái lòng của mình ra để tăng sự hiểu biết, các nhà triết học phương tây có những nền tảng triết học vô cùng cặn kẽ về cuộc sống, về động lực cho sự sống, như hegel với công trình đồ sộ là Hiện tượng học tinh thần, Kant với triết học khoa học, làm nền tảng cho sự phát triển vô cùng vĩ đại của nhân loại.

còn riêng về Phật, tao không có ý kiến gì về ổng cả, với tao ổng là một người đã chết, có lẽ ổng đã chết một cách hoàn toàn thoải mái, đã hoàn thành xong những thứ cần phải làm, đã đặt xuống những gánh nặng và thật sự vui vẻ mà không thấy một chút nào đau khổ. Đó là kết quả thong qua quá trình của ông đạt được, nhưng những thứ ổng dạy chưa chắc đã được truyền dạy một cách chính xác, thậm chí đến những bản kinh cổ nhất cũng được ghi chép cách lúc phật chết hàng trăm năm,

Nói ra để có thể tìm thấy những điểm cần phải xem xét, trên con đường thực nghiệm, mày đừng làm xấu mặt người mày tin tưởng vào giáo lý của ổng.
hí hí hí
các nhà triết học phương tây có những nền tảng triết học vô cùng cặn kẽ về cuộc sống, về động lực cho sự sống, như hegel với công trình đồ sộ...
:big_smile: tao không có nhu cầu nghe mày phét lác triết học là mớ mày không có để mày thủ dâm mày. Tao không có nhu cầu đó, mày cứ việc sủa tiếp cũng được, không sao đâu, tao không care :big_smile:
Tiếp theo, tao cũng chẳng phải cay cú gì đâu bạng, cuộc tranh luận này nó chẳng là cái gì quá quan trọng đâu, nó làm tao thấy rằng, khi tao nói về một điều mà những thằng khác tôn thờ như một loại đời sống tâm linh thực thụ. Thì nó sẽ sẵn sàng chửi bới tao thôi.
hành vi của bạng, có khác gì một con chiên khi tao nói rằng không có thượng đế tồn tại hay không, trong cuộc bình luận này có lẽ chỉ có mỗi mình bạng cay cú, thật ra nếu sử dụng những từ ngữ như bạng, lúc mới đọc vào thì cũng nóng máu thật, nhưng nó cũng chỉ là sự thoảng qua mà thôi, nó chẳng có ý nghĩa gì cả.
con người có hạn chế của chính mình, và thông qua đàm luận, dẫn nhập thì sẽ hiểu, còn thằng @dungdamchemnhau hay bất kỳ một thằng nào khác ngoài cuộc tranh luận này tham gia vào nó chẳng có ý nghĩa gì cho cuộc tranh luận cả,
:big_smile: :))=)) Mày cay lắm, mày khóc dài để giải thích mày "không cay" tao :))=))=))=))
Tao nói mày não cá vàng đâu có sai, mày công kích trước, mày chửi bới mày bao biện, khóc lóc đóng vai nạn nhân thì mày tự ăn cứt mày ỉa ra :))=))
Tao thích "có ý nghĩa" đấy. Mày làm gì được tao ngoài cay cú :))=))
Bạng nói quá hay, nếu cao siêu vậy thì bạng đắc đạo chưa vậy bạng, nhảm nhí
mày mở mõm khích bác kiểu đó mà tưởng mình là thiên tài à :))=)) Tao đắc đạo hay không thì liên quan gì đến việc tao đang đập mày như đập con chó hư sủa bậy :))=)) mày không ẳng nổi thì đừng giở cái trò con nít ranh ra, nghe mà buồn cười thay cho sự bất lực của mày :big_smile:
Bạng học giáo lý mà công kích cá nhân tao
Ôi chao, mày nghĩ mày là cái rốn vũ trụ, tao phải vuốt ve cái ngu của mày à mày à? :)) buồn cười thật, tao nói mày ngu vì mày ngu thật, không phải vì tao học giáo lý thì phải giả vờ hiền như cục đất phải sợ mày thì mày mới chịu :))=)) . Học giáo lý là để hiểu, để sống, tao không học giáo lý để chiều theo ý mày sủa rồi mày nịnh nọt để ăn cứt tao :)):big_smile:
Bạng đừng nói tái sinh nữa, cái gì xây dựng trên triết học tái sinh thì phải chấp nhận nghiệp
Mày tưởng mày là hoàng đế ra chiếu chỉ cho tao à? :)) Tái sinh, nghiệp, duyên là hệ thống liền mạch bất khả phân tách, mày không chấp nhận thì kệ mẹ mày, tự mày phơi bày cái ngu của mày ra, nhưng đừng bảo tao không được nói khi mày chính là thằng mở đề tài này ra. Mày đừng cầu mong tao ngưng khi chính mày là thằng ngu óc cứt khơi chuyện này để mày sủa đổng :))=)):big_smile:
Bạng nói vi diệu pháp, tao đọc rồi
:))=))mày đọc rồi mày có hiểu gì đâu vẫn ngu như con lợn, đọc để khoe "ta đây có đọc" rồi vứt sọt rác? Vi diệu pháp giải thích tái sinh, nghiệp, tâm thức rõ như ban ngày, mày không tin thì tự mày phủ định mày, mày tự ỉa ra rồi mày lại ăn cứt của mày :))=)):big_smile:
Tao chỉ cần đề cập tới cái gì mới, mày lại chạy theo tao sủa để táp cứt ngay, chứng tỏ mày chưa đọc cái con mẹ gì cả, mày phét lác sủa đổng là giỏi :big_smile:
Tái sinh là thuyết không kiểm chứng, không phổ quát thì cái gì lấy nó làm gốc đều không thỏa mãn
Haha. :))=)) mày tưởng mày là nhà khoa học vĩ đại đòi kiểm chứng tái sinh như cân ký gạo đo ký thóc? Mày đừng ngu thế chứ, thằng đần độn này! :))=)):big_smile: Tái sinh không phải thứ để mày cầm cái thước bé tí của mày đo đạc, nó là chân lý trải nghiệm, là cái Phật Toàn Giác chứng ngộ qua Thiền định, không phải để mấy thằng óc chó như mày ngồi đòi ‘bằng chứng’ kiểu phòng thí nghiệm. Mày không thấy không phải vì nó không có, mà vì mắt mày mù, đầu mày rỗng, đừng đổ thừa giáo lý khi chính mày là thằng bất tài. Cái ví dụ nhà che mưa của mày thì ngu không cứu nổi, như thằng trẻ con viết nguệch ngoạc rồi khoe chữ đẹp, Phật giáo là hệ thống nhìn đời, giải thích khổ đau, không phải công trình xây dựng để mày đòi "vật liệu chống nước". So sánh kiểu đó chỉ chứng minh mày nông cạn đến mức thảm hại, không hơn. Mày không hiểu thì cút, đừng sủa bậy :big_smile:
Phật thừa nhận tái sinh, luân hồi là nền tảng
đúng, nhưng mày hiểu sai bét mà còn vênh mặt gật gù như thằng biết tuốt, mày tưởng mày như con ếch ngồi đáy giếng ảo tưởng biết hết thiên hạ. :)) Luân hồi không phải ‘giả định’ để mày thích thì gật, không thì lắc. nó là thực tế Đức Phật Toàn Giác chứng ngộ, thấy bằng Tuệ Nhãn giải thích cái khổ bằng trí tuệ, là cách giải thích khổ đau luân chuyển qua Nghiệp và Duyên, không phải thứ thằng ngu mày không thích là bác là xong chuyện đâu :big_smile:
Bằng chứng không có, Phật học từ Bà La Môn
Ồ, mày tưởng mày khám phá ra kho báu tri thức à? Luân hồi không phải của riêng độc quyền của Bà-la-môn, nó là thứ Đức Phật Toàn Giác chứng ngộ, hệ thống hóa nó thành hệ thống giáo lý riêng, sâu sắc hơn, chặt chẽ hơn cả cái đầu óc lười biếng của mày nghĩ ra vô hạn lần. Mày không biết thì đừng lên giọng sủa, đừng lên mặt như thằng móc rác tìm được vàng trong đống rác :))=)):big_smile:
Không tái sinh thì thập nhị nhân duyên không cần, tu tập cũng không cần
mày sai, ngu đến mức thảm hại, đúng là đáng thương thay cho kiếp ngu si của mày! Thập nhị nhân duyên là chân lý áp ngay trong kiếp này: mày ngu thì mày làm bậy, làm bậy thì mày khổ, rõ ràng ban ngày, cần gì kiếp sau để chứng minh đâu mà mày khăng khăng như thằng điên? Tu tập là để diệt khổ ngay tại đây, không chỉ để thoát luân hồi, mày không thấy thì do mày đui mù, đừng phét lác như thằng biết hết đời :)):big_smile:
Phật dạy hạnh phúc hiện tại hay Phật thừa nhận tái sinh
Mày tự vẽ hai hướng rồi tự thấy mâu thuẫn à? Phật dạy cả hai, thằng ngu: hết khổ hiện tại là bước đầu, thoát luân hồi là đích cuối. Không mâu thuẫn gì ngoài cái đầu ngu bã cứt của mày :)):big_smile:
Phật giáo phát triển ngàn năm, luận sư cao siêu, nhưng bạng chửi tao thì học để làm gì
Mày cay tao à :big_smile: tao vạch mặt mày vì mày đáng bị vạch, không liên quan gì đến giáo lý tao học. Tao học để hiểu, không phải để làm trò hề với thằng ngu. Mày không cần phải thắc mắc ngu như con nít ngây thơ mới nhú :))=))
Phật chết thoải mái, giáo lý chưa chắc chính xác
Mày lôi chuyện kinh ghi sau hàng trăm năm ra để tỏ ra khôn à? Thì sao, cốt lõi vẫn là Tứ Đế, Bát Đạo, bất biến qua thời gian,mày không thấy giá trị thì tự mày thiệt, mày đừng giả vờ thông thái hơn cả ngàn năm trí tuệ. Nghe mà buồn cười vãi đái :))=))
Tóm lại, mày viết dài mà toàn sai, ú ớ lỏng lẻo như đống rác mục! Tao đập mày vì mày ngu, không phải vì "niềm tin" gì cả như mày hoang tưởng :big_smile: . Đừng tự mãn với cái dốt nát ngu si của mày nữa, nhìn mà chỉ thấy thảm hại thay cho cái óc chứa cứt bé bỏng của mày thôi. :big_smile:
 
:big_smile: tao không có nhu cầu nghe mày phét lác triết học là mớ mày không có để mày thủ dâm mày. Tao không có nhu cầu đó, mày cứ việc sủa tiếp cũng được, không sao đâu, tao không care :big_smile:

:big_smile: :))=)) Mày cay lắm, mày khóc dài để giải thích mày "không cay" tao :))=))=))=))
Tao nói mày não cá vàng đâu có sai, mày công kích trước, mày chửi bới mày bao biện, khóc lóc đóng vai nạn nhân thì mày tự ăn cứt mày ỉa ra :))=))
Tao thích "có ý nghĩa" đấy. Mày làm gì được tao ngoài cay cú :))=))

mày mở mõm khích bác kiểu đó mà tưởng mình là thiên tài à :))=)) Tao đắc đạo hay không thì liên quan gì đến việc tao đang đập mày như đập con chó hư sủa bậy :))=)) mày không ẳng nổi thì đừng giở cái trò con nít ranh ra, nghe mà buồn cười thay cho sự bất lực của mày :big_smile:

Ôi chao, mày nghĩ mày là cái rốn vũ trụ, tao phải vuốt ve cái ngu của mày à mày à? :)) buồn cười thật, tao nói mày ngu vì mày ngu thật, không phải vì tao học giáo lý thì phải giả vờ hiền như cục đất phải sợ mày thì mày mới chịu :))=)) . Học giáo lý là để hiểu, để sống, tao không học giáo lý để chiều theo ý mày sủa rồi mày nịnh nọt để ăn cứt tao :)):big_smile:

Mày tưởng mày là hoàng đế ra chiếu chỉ cho tao à? :)) Tái sinh, nghiệp, duyên là hệ thống liền mạch bất khả phân tách, mày không chấp nhận thì kệ mẹ mày, tự mày phơi bày cái ngu của mày ra, nhưng đừng bảo tao không được nói khi mày chính là thằng mở đề tài này ra. Mày đừng cầu mong tao ngưng khi chính mày là thằng ngu óc cứt khơi chuyện này để mày sủa đổng :))=)):big_smile:

:))=))mày đọc rồi mày có hiểu gì đâu vẫn ngu như con lợn, đọc để khoe "ta đây có đọc" rồi vứt sọt rác? Vi diệu pháp giải thích tái sinh, nghiệp, tâm thức rõ như ban ngày, mày không tin thì tự mày phủ định mày, mày tự ỉa ra rồi mày lại ăn cứt của mày :))=)):big_smile:
Tao chỉ cần đề cập tới cái gì mới, mày lại chạy theo tao sủa để táp cứt ngay, chứng tỏ mày chưa đọc cái con mẹ gì cả, mày phét lác sủa đổng là giỏi :big_smile:

Haha. :))=)) mày tưởng mày là nhà khoa học vĩ đại đòi kiểm chứng tái sinh như cân ký gạo đo ký thóc? Mày đừng ngu thế chứ, thằng đần độn này! :))=)):big_smile: Tái sinh không phải thứ để mày cầm cái thước bé tí của mày đo đạc, nó là chân lý trải nghiệm, là cái Phật Toàn Giác chứng ngộ qua Thiền định, không phải để mấy thằng óc chó như mày ngồi đòi ‘bằng chứng’ kiểu phòng thí nghiệm. Mày không thấy không phải vì nó không có, mà vì mắt mày mù, đầu mày rỗng, đừng đổ thừa giáo lý khi chính mày là thằng bất tài. Cái ví dụ nhà che mưa của mày thì ngu không cứu nổi, như thằng trẻ con viết nguệch ngoạc rồi khoe chữ đẹp, Phật giáo là hệ thống nhìn đời, giải thích khổ đau, không phải công trình xây dựng để mày đòi "vật liệu chống nước". So sánh kiểu đó chỉ chứng minh mày nông cạn đến mức thảm hại, không hơn. Mày không hiểu thì cút, đừng sủa bậy :big_smile:

đúng, nhưng mày hiểu sai bét mà còn vênh mặt gật gù như thằng biết tuốt, mày tưởng mày như con ếch ngồi đáy giếng ảo tưởng biết hết thiên hạ. :)) Luân hồi không phải ‘giả định’ để mày thích thì gật, không thì lắc. nó là thực tế Đức Phật Toàn Giác chứng ngộ, thấy bằng Tuệ Nhãn giải thích cái khổ bằng trí tuệ, là cách giải thích khổ đau luân chuyển qua Nghiệp và Duyên, không phải thứ thằng ngu mày không thích là bác là xong chuyện đâu :big_smile:

Ồ, mày tưởng mày khám phá ra kho báu tri thức à? Luân hồi không phải của riêng độc quyền của Bà-la-môn, nó là thứ Đức Phật Toàn Giác chứng ngộ, hệ thống hóa nó thành hệ thống giáo lý riêng, sâu sắc hơn, chặt chẽ hơn cả cái đầu óc lười biếng của mày nghĩ ra vô hạn lần. Mày không biết thì đừng lên giọng sủa, đừng lên mặt như thằng móc rác tìm được vàng trong đống rác :))=)):big_smile:

mày sai, ngu đến mức thảm hại, đúng là đáng thương thay cho kiếp ngu si của mày! Thập nhị nhân duyên là chân lý áp ngay trong kiếp này: mày ngu thì mày làm bậy, làm bậy thì mày khổ, rõ ràng ban ngày, cần gì kiếp sau để chứng minh đâu mà mày khăng khăng như thằng điên? Tu tập là để diệt khổ ngay tại đây, không chỉ để thoát luân hồi, mày không thấy thì do mày đui mù, đừng phét lác như thằng biết hết đời :)):big_smile:

Mày tự vẽ hai hướng rồi tự thấy mâu thuẫn à? Phật dạy cả hai, thằng ngu: hết khổ hiện tại là bước đầu, thoát luân hồi là đích cuối. Không mâu thuẫn gì ngoài cái đầu ngu bã cứt của mày :)):big_smile:

Mày cay tao à :big_smile: tao vạch mặt mày vì mày đáng bị vạch, không liên quan gì đến giáo lý tao học. Tao học để hiểu, không phải để làm trò hề với thằng ngu. Mày không cần phải thắc mắc ngu như con nít ngây thơ mới nhú :))=))

Mày lôi chuyện kinh ghi sau hàng trăm năm ra để tỏ ra khôn à? Thì sao, cốt lõi vẫn là Tứ Đế, Bát Đạo, bất biến qua thời gian,mày không thấy giá trị thì tự mày thiệt, mày đừng giả vờ thông thái hơn cả ngàn năm trí tuệ. Nghe mà buồn cười vãi đái :))=))
Tóm lại, mày viết dài mà toàn sai, ú ớ lỏng lẻo như đống rác mục! Tao đập mày vì mày ngu, không phải vì "niềm tin" gì cả như mày hoang tưởng :big_smile: . Đừng tự mãn với cái dốt nát ngu si của mày nữa, nhìn mà chỉ thấy thảm hại thay cho cái óc chứa cứt bé bỏng của mày thôi. :big_smile:
Mày tưởng mày là hoàng đế ra chiếu chỉ cho tao à? Tái sinh, nghiệp, duyên là hệ thống liền mạch bất khả phân tách…

À, vậy tức là nếu tao hỏi một câu về tái sinh, mày phải giảng luôn cả nghiệp, cả duyên, cả luân hồi, cả Tứ Diệu Đế, rồi có khi cả Ấn Độ cổ đại? Chẳng trách mà có người ngồi nghe đạo lý xong thì thành Phật, còn có người nghe xong thì chỉ muốn… ngủ.


Mày tưởng mày là nhà khoa học vĩ đại đòi kiểm chứng tái sinh như cân ký gạo đo ký thóc? Mày đừng ngu thế chứ!

Cũng phải, kiểm chứng làm gì cho mệt, tin luôn cho khỏe. Khoa học lúc nào cũng lằng nhằng, phải có bằng chứng, phải lặp lại thí nghiệm, phải giải thích cơ chế… Trong khi tin theo cảm tính thì chỉ cần một ông nào đó nói là đủ. Còn nếu ai hỏi ngược lại? Đơn giản, bảo họ ngu là xong!


Mày cay lắm, mày khóc dài để giải thích mày "không cay"…

Hóa ra bây giờ tranh luận không cần nghe lập luận nữa, chỉ cần nhìn xem ai “cay” hơn? Vậy thì cứ ai bình tĩnh hơn là thắng? Nếu thế thì cái bàn, cái ghế chắc là trí tuệ siêu việt rồi, vì chúng nó không bao giờ tỏ ra “cay”.


Mày ngu thì mày làm bậy, làm bậy thì mày khổ, rõ ràng ban ngày, cần gì kiếp sau để chứng minh đâu…

Ồ, vậy nghĩa là không cần kiếp sau cũng thấy nhân quả à? Vậy thì cần gì phải tin luân hồi nữa? Chỉ cần nhìn đời sống hiện tại thôi cũng đủ hiểu nghiệp báo rồi, đúng không? Nhưng mà khoan, nếu đã không cần kiếp sau, thì tại sao cứ khăng khăng đòi có tái sinh?



Mày sai, ngu đến mức thảm hại, đúng là đáng thương thay cho kiếp ngu si của mày!

Một lập luận thật hùng hồn! Cách phản biện quá xuất sắc, dùng đúng kỹ thuật “ném gạch thay vì đưa lý lẽ”. Nếu cứ ai nói khác mình thì mình gọi họ là ngu, vậy chắc Newton, Einstein, Tesla… đều là những kẻ ngốc trong mắt người cùng thời của họ. Thật may là họ không tranh luận theo kiểu này, nếu không nhân loại vẫn còn đang cãi nhau xem sét có phải do thần sấm đánh không.



Mày lôi chuyện kinh ghi sau hàng trăm năm ra để tỏ ra khôn à? Thì sao, cốt lõi vẫn là Tứ Đế, Bát Đạo…

Nói cách khác, kinh điển có thể bị thay đổi theo thời gian, nhưng miễn là “cốt lõi” còn đó thì không sao? Nhưng làm sao biết được cốt lõi nào là đúng? Và nếu đã có thay đổi, thì ai dám chắc những gì mình tin hôm nay không phải là phiên bản bị chỉnh sửa của một cái gì đó hoàn toàn khác?


Tao đập mày vì mày ngu, không phải vì 'niềm tin' gì cả…

Đúng rồi, khi hết lý lẽ, cứ dùng đến nắm đấm. Nếu xưa kia các nhà khoa học cũng tranh luận theo kiểu này, thì giờ chắc chúng ta vẫn còn đang chữa bệnh bằng cách cúng gà.
 
Mới đi chơi về, giờ mới rảnh để trả lời.

Ừ Dhamma phiên âm là Pháp.

T mới suy nghĩ lại thuật ngữ matrix, vì nó xài tiếng Anh nên không rõ cái từ gốc nó nói gì và muốn biểu thị cái gì.

Tìm hiểu sơ sơ thì đây : "Việc sử dụng từ "ma trận" ở đây nhằm nhấn mạnh rằng giáo lý của Đức Phật không chỉ đơn giản là những lời dạy rời rạc, mà là một hệ thống chặt chẽ, trong đó các yếu tố liên kết và tương tác với nhau một cách tinh vi. Sự tương tác này tạo nên một "ma trận" – một mạng lưới phức tạp giúp người tu hành hiểu rõ hơn về bản chất thực sự của thực tại và con đường dẫn đến giác ngộ."

Có lẽ nói về giáo lý Duyên Hệ đan xen lẫn nhau. Nhìn qua lược đồ là có thể thấy được sự phức tạp đó :

bMMSH1.jpg
Vớ vẩn, đây là giáo lý đám nho giáo đem vô nhét cho Thích Ca thằng ngu.
 
Cái nào là Nho, mày trích ra đi.
Chưa gì mà đã chửi tao.
Khái niệm Duyên của Thích Ca đơn giản hơn rất nhiều Duyên khởi, nhị thập nhân duyên, chấm hết. Mày đừng có làm phức tạp hóa, thần thánh hóa đạo phật như đám thầy tổ đã làm, nó phát nát thứ đạo phật nhân bản, nhân văn, khoa học của Thích Ca.
 
Khái niệm Duyên của Thích Ca đơn giản hơn rất nhiều Duyên khởi, nhị thập nhân duyên, chấm hết. Mày đừng có làm phức tạp hóa, thần thánh hóa đạo phật như đám thầy tổ đã làm, nó phát nát thứ đạo phật nhân bản, nhân văn, khoa học của Thích Ca.
Bạc quan điểm:
Duyên của Thích Ca đơn giản lắm, không phải mấy cái vòng vo tam quốc như Duyên khởi hay Nhị thập nhân duyên đâu. Ngài chỉ nói một câu gọn lỏn: Cái này có thì cái kia có, cái này mất thì cái kia mất. Xong! Gọn gàng như một tô cơm trắng với nước tương – đủ chất, dễ tiêu, không màu mè!

Nhưng rồi chuyện gì xảy ra? Đám đệ tử đời sau bắt đầu bẻ lái, thêm thắt đủ thứ triết lý nghe hoành tráng như phim bom tấn. Ban đầu chỉ là Duyên, xong đẻ ra Duyên khởi, rồi nhân tiện phát triển thành Nhị thập nhân duyên, biến một thứ đơn giản thành một hệ thống hại não mà đến thần tiên cũng thấy rối.

Thực ra Thích Ca chỉ muốn nói: Mọi chuyện đều có lý do, đừng có đổ thừa số phận. Chứ không phải để người ta suốt ngày cãi nhau xem "Duyên với Nghiệp cái nào nặng hơn", hay "Kiếp này chưa duyên, chắc kiếp sau". Nhân văn, khoa học, thực tế – chứ không phải huyễn hoặc.

Vậy nên, nếu ai hỏi Duyên là gì? Cứ bình tĩnh trả lời: Cái gì có trước thì kéo theo cái sau. Như ăn cay xong sẽ tìm nước, đi làm trễ thì bị trừ lương. Đơn giản thế thôi, khỏi phải thần thánh hóa làm gì!
 
Bạc quan điểm:
Duyên của Thích Ca đơn giản lắm, không phải mấy cái vòng vo tam quốc như Duyên khởi hay Nhị thập nhân duyên đâu. Ngài chỉ nói một câu gọn lỏn: Cái này có thì cái kia có, cái này mất thì cái kia mất. Xong! Gọn gàng như một tô cơm trắng với nước tương – đủ chất, dễ tiêu, không màu mè!

Nhưng rồi chuyện gì xảy ra? Đám đệ tử đời sau bắt đầu bẻ lái, thêm thắt đủ thứ triết lý nghe hoành tráng như phim bom tấn. Ban đầu chỉ là Duyên, xong đẻ ra Duyên khởi, rồi nhân tiện phát triển thành Nhị thập nhân duyên, biến một thứ đơn giản thành một hệ thống hại não mà đến thần tiên cũng thấy rối.

Thực ra Thích Ca chỉ muốn nói: Mọi chuyện đều có lý do, đừng có đổ thừa số phận. Chứ không phải để người ta suốt ngày cãi nhau xem "Duyên với Nghiệp cái nào nặng hơn", hay "Kiếp này chưa duyên, chắc kiếp sau". Nhân văn, khoa học, thực tế – chứ không phải huyễn hoặc.

Vậy nên, nếu ai hỏi Duyên là gì? Cứ bình tĩnh trả lời: Cái gì có trước thì kéo theo cái sau. Như ăn cay xong sẽ tìm nước, đi làm trễ thì bị trừ lương. Đơn giản thế thôi, khỏi phải thần thánh hóa làm gì!
Đúng đúng, mày nói đúng ý tao. Đời sau nó phá nát cái đạo phật nguyên thủy của Thích Ca, nhét vô bao nhiêu là kinh kệ, bùa chú, vãng sanh thế giới cực lạc, bùa chú...đủ hết. Chúng là tà đạo. Có ai đắc đạo được đâu, toàn bị lạc trong thiền tưởng. Để lại đám chúng sinh u mê ngày hôm nay. Ngay cái cái kinh lăng nghiêm này cũng là xạo Lồn luôn.
 
Mấy thầy giỏi quá, bất cứ cái Lồn què đi ngược ý mấy thầy đều là sai trái. Sao mấy thầy không lập con mẹ nó hệ quy chiếu mới, hay cái đại loại gọi là “đạo gốc” nhỉ.

Viết bài phân tích theo dữ liệu có sẵn thì bảo Xạo Lồn, vậy xin hãy dành đời sống 70 năm của các thầy làm một kho tàng các để lại cho đời sau, và những kẻ u mê này sáng tâm hồn.

Tao không rảnh để ngồi nghe mấy cái luận 3xu từ mõm chó duy ý chí, nếu mấy thầy cho mình là đúng, cứ lấy căn cứ hay dữ liệu gì đó show ra để đáp cứt vô cái mấy thầy đéo thích.

Tao hay vài người ở đây vẫn chỉ là người phàm trần, đầu dưới trời thôi.

@dungdamchemnhau @vuacuaxam
 
Mấy thầy giỏi quá, bất cứ cái lồn què đi ngược ý mấy thầy đều là sai trái. Sao mấy thầy không lập con mẹ nó hệ quy chiếu mới, hay cái đại loại gọi là “đạo gốc” nhỉ.

Viết bài phân tích theo dữ liệu có sẵn thì bảo Xạo Lồn, vậy xin hãy dành đời sống 70 năm của các thầy làm một kho tàng các để lại cho đời sau, và những kẻ u mê này sáng tâm hồn.

Tao không rảnh để ngồi nghe mấy cái luận 3xu từ mõm chó duy ý chí, nếu mấy thầy cho mình là đúng, cứ lấy căn cứ hay dữ liệu gì đó show ra để đáp cứt vô cái mấy thầy đéo thích.

Tao hay vài người ở đây vẫn chỉ là người phàm trần, đầu dưới trời thôi.

@dungdamchemnhau @vuacuaxam
Kêu gào cái đíu gì thế??? 🤣🤣🤣
 
Kêu gào cái đíu gì thế??? 🤣🤣🤣
Kêu gào đéo gì đâu, bên Công giáo ngày trước vẫn có nhiều ông đéo thích tư duy của Giáo hội Roma tách đầy ra mà, người ta có luận điểm rõ ràng.

Còn cái topic đang nói về Lăng Nghiêm, thì nó kéo cho 10 pages toàn nói về gì mà phá đạo hay ko đắc đạo. Nhìn mấy bạn diễn thấy cực giùm thôi
 
Mới đi chơi về, giờ mới rảnh để trả lời.

Ừ Dhamma phiên âm là Pháp.

T mới suy nghĩ lại thuật ngữ matrix, vì nó xài tiếng Anh nên không rõ cái từ gốc nó nói gì và muốn biểu thị cái gì.

Tìm hiểu sơ sơ thì đây : "Việc sử dụng từ "ma trận" ở đây nhằm nhấn mạnh rằng giáo lý của Đức Phật không chỉ đơn giản là những lời dạy rời rạc, mà là một hệ thống chặt chẽ, trong đó các yếu tố liên kết và tương tác với nhau một cách tinh vi. Sự tương tác này tạo nên một "ma trận" – một mạng lưới phức tạp giúp người tu hành hiểu rõ hơn về bản chất thực sự của thực tại và con đường dẫn đến giác ngộ."

Có lẽ nói về giáo lý Duyên Hệ đan xen lẫn nhau. Nhìn qua lược đồ là có thể thấy được sự phức tạp đó :

bMMSH1.jpg
Phật học thì t cũng ko nghiên cứu sâu đến mức độ để tới được chỗ này, cơ bản t cũng đang hiểu theo cách diễn giải “thô sơ” nhất như cách tiếng Anh, phương Tây trình bày. Và suy luận ra quan điểm sống thôi.

“Tâm trí là tất cả. Suy nghĩ của bạn định hình con người bạn.” - Đức Phật Cồ Đàm

"The mind is everything. What you think you become." - Buddha Gautama
 
Kêu gào đéo gì đâu, bên Công giáo ngày trước vẫn có nhiều ông đéo thích tư duy của Giáo hội Roma tách đầy ra mà, người ta có luận điểm rõ ràng.

Còn cái topic đang nói về Lăng Nghiêm, thì nó kéo cho 10 pages toàn nói về gì mà phá đạo hay ko đắc đạo. Nhìn mấy bạn diễn thấy cực giùm thôi
Giải trí là chính thôi bạng.
Có kẻ đi và người ở, d

Thớt lắt léo nó với hay
 

Có thể bạn quan tâm

Top