Có Video A chan báo lại theo

Thằng Báu này vốn không chỉ không tôn trọng ông Tuệ mà nó khinh thường đạo tu của ông Tuệ luôn. Nó xem cách tu của ông Tuệ là "đám ăn xin" với giọng khinh miệt thì làm gì có ai tin chuyện nó nói về Phật pháp.
Ông Tuệ xem thằng Báo này là con quỷ cũng là vì vậy. Ngoài mặt thì nó kính trọng ông Tuệ, khen đạo Phật nhưng bên trong thì nó khinh thường tất cả.
Giờ tao hiểu vì sao mà ông Tuệ bắt nó phải đi tu thì mới cho theo rồi. Chỉ có đi tu thì mới chứng minh được là nó không khinh đạo nữa từ đó ông Tuệ mới có thể xem nó như là người cần giúp đỡ.
Nó an ninh kộng sản nhồi sọ từ lúc còn trong hòn dái ông già nó thì mày kêu nó tin vào Phật giáo.
 
Một thời Phật ở thành La-duyệt, vườn trúc Ca-lan-đà, cùng với đại chúng Tỳ-kheo năm trăm vị.

Bấy giờ Tôn giả Đại Ca-diếp trụ A-lan-nhã. Đến giờ khất thực, Tôn giả không phân biệt giàu nghèo. Tôn giả ở một nơi, ngồi một chỗ hoặc dưới gốc cây, hoặc ngoài đồng trống, hoặc ở chỗ vắng vẻ trọn không dời đổi, mặc áo năm mảnh, hoặc giữ ba y, hoặc ở gò mả, hoặc ăn một bữa, hoặc ăn chính ngọ, hoặc hành đầu-đà mặc dù tuổi cao già cả. Bấy giờ Tôn giả Đại Ca-diếp ăn xong liền đến dưới một cội cây thiền định, thiền định xong, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa sang y phục, đi đến chỗ Thế Tôn. Bấy giờ Thế Tôn từ xa trông thấy Ca-diếp đến. Thế Tôn bảo rằng:


- Khéo đến, Ca-diếp!

Ca-diếp đến chỗ Phật cúi lạy rồi ngồi một bên. Thế Tôn dạy rằng:

- Ca-diếp! Nay Thầy đã lớn tuổi, già cả, quá suy, lọm khọm, vậy Thầy nên bỏ hạnh khất thực, cho đến các hạnh đầu-đà, mà nên nhận lời mời của các trưởng giả và nhận y áo.

Ca-diếp đáp:

- Con không dám theo lời Như Lai dạy. Vì sao? Vì nếu Như Lai không thành đạo Vô thượng Chánh chân, thì con ắt thành Bích-chi Phật, mà Bích-chi Phật trọn hành A-lan-nhã. Đến giờ khất thực, con không phân biệt giàu, nghèo. Con ở một nơi, ngồi một chỗ hoặc ngồi dưới gốc cây, hoặc ngoài đồng trống, hoặc chỗ vắng vẻ trọn chẳng dời đổi, hoặc mặc áo năm mảnh, hoặc giữ ba y, hoặc ở gò mả, hoặc ăn một bữa, hoặc ăn đúng ngọ, hoặc hành đầu-đà. Nay con chẳng dám bỏ thói cũ mà học hạnh khác.


Thế Tôn bảo rằng:

- Lành thay! Lành thay, Ca-diếp! Thầy có nhiều lợi ích, độ người vô lượng, rộng đến tất cả Trời, Người đều được độ. Vì sao? Ca-diếp! Nếu hạnh đầu-đà này được ở đời thì pháp của Ta cũng sẽ được lâu dài ở đời. Nếu có pháp ở đời, thì thiên đạo tăng thêm, ba đường ác liền giảm. Cũng vậy, thánh Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, đạo Tam thừa đều còn ở đời. Này các Tỳ-kheo, hãy học như Ca-diếp tu tập.


Như vậy, các Tỳ-kheo, nên học điều này.

Bấy giờ các Tỳ-kheo nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.

(Kinh Tăng nhất A-hàm, tập I, phẩm Nhập đạo,
VNCPHVN ấn hành, 1997, tr145)​
 
Ê, mày nhờ tao fact check thông tin về Dhutanga (Hạnh Đầu Đà) đúng không? Tao sẽ phân tích từng điểm mày đưa ra xem đúng sai thế nào, dựa trên dữ liệu từ kinh điển Phật giáo và bối cảnh lịch sử. Chuẩn bị tinh thần nghe tao "bóc phốt" từng ý nha!

---

### **1. Dhutanga có được nhắc trong Đại Tạng Kinh hay A Hàm không?**
Mày nói rằng trong Đại Tạng Kinh có nhắc danh từ “Hạnh Đầu Đà” nhưng 13 hạnh (Nam Tông) hay 12 hạnh (Bắc Tông) không được ghi trong Đại Tạng Kinh hay A Hàm. Cái này sai rồi!

- **Sự thật:** Dhutanga (Hạnh Đầu Đà) được đề cập rõ ràng trong kinh điển Phật giáo sớm, đặc biệt là trong **Đại Tạng Kinh Pali** (Pali Canon), thuộc Tam Tạng (Tripitaka). Cụ thể:
- Trong **Majjhima Nikaya** (Trung Bộ Kinh), sutta 113 (Sappurisa Sutta), Đức Phật liệt kê các thực hành khổ hạnh như mặc áo vá (pamsukūla), sống trong rừng (āraññika)—đây là các hạnh thuộc Dhutanga. Ông nói rõ đây là tùy chọn, không bắt buộc với các vị tăng.
- Trong **Anguttara Nikaya** (Tăng Chi Bộ Kinh), Đức Phật khen ngợi các vị tăng như ngài Mahakassapa (Đại Ca Diếp) vì thực hành nghiêm ngặt Dhutanga.
- **A Hàm (Agama):** A Hàm là phiên bản tương đương của Nikaya trong truyền thống Bắc Tông, và các đoạn tương tự về Dhutanga cũng xuất hiện, dù cách diễn đạt có thể khác chút tùy bản dịch.

Vậy nên, không phải chỉ có “danh từ” được nhắc sơ sơ đâu, mà **Dhutanga thực sự nằm trong kinh điển sớm**, không phải phát minh sau này.

---

### **2. Dhutanga có phải là khổ hạnh từ đạo Bà La Môn không?**
Mày bảo Dhutanga là một phần của đạo Bà La Môn, thịnh hành thời đó, và Đức Phật chỉ “mượn” lại. Cái này chỉ đúng một nửa.

- **Bối cảnh lịch sử:** Đúng là trước khi Phật giáo ra đời, khổ hạnh (tapas) đã phổ biến ở Ấn Độ, bao gồm trong đạo Bà La Môn và các nhóm du sĩ khác. Người ta tin rằng “ép xác” giúp thanh lọc nghiệp hoặc đạt siêu thoát.
- **Sự khác biệt:** Tuy nhiên, Đức Phật không bê nguyên xi khổ hạnh của Bà La Môn vào Phật giáo. Ông từng thử nghiệm khổ hạnh cực đoan (nhịn ăn, tự hành xác) trước khi giác ngộ và **từ bỏ nó**, vì thấy nó không dẫn đến giải thoát—điều này ghi trong **Mahāsaccaka Sutta** (Kinh Đại Sa-môn). Sau đó, ông dạy **Trung Đạo** (Majjhima Patipada), tránh cả hưởng thụ lẫn khổ hạnh cực đoan.
- **Dhutanga trong Phật giáo:** 13 hạnh Dhutanga (như mặc áo vá, ở rừng, chỉ ăn khất thực) được Đức Phật điều chỉnh để phù hợp với mục tiêu Phật giáo: **giảm tham muốn, hỗ trợ thiền định**, chứ không phải “ép xác giải nghiệp” như kiểu Bà La Môn. Đây là công cụ hỗ trợ, không phải cốt lõi.

Vậy nên, Dhutanga không phải “gốc rễ đạo Bà La Môn” mà là phiên bản Phật giáo hóa từ phong tục khổ hạnh thời bấy giờ.

---

### **3. Đức Phật không khuyến khích Dhutanga?**
Mày nói Đức Phật không cấm nhưng cũng không khuyến khích Dhutanga, chỉ “lấp lửng”. Cái này cần làm rõ.

- **Thái độ của Đức Phật:** Đức Phật không bắt buộc Dhutanga, nhưng ông **khen ngợi** nó khi được thực hành đúng tâm thái. Ví dụ:
- Ngài Mahakassapa được ca ngợi là bậc nhất về Dhutanga trong **Anguttara Nikaya**.
- Trong **Sappurisa Sutta**, Đức Phật nói các hạnh này có thể giúp tăng trưởng định lực và buông bỏ, miễn là không sinh kiêu mạn hay coi thường người khác.
- **Cảnh báo:** Ông cũng nhấn mạnh không nên thực hành Dhutanga để khoe khoang hay nghĩ mình hơn người—đây là cái mày gọi là “lấp lửng”. Thực chất, ông để nó tùy thuộc vào từng người: ai thấy hợp thì làm, ai không thì thôi.

Nói Đức Phật không khuyến khích là không chính xác—ông ủng hộ nếu nó giúp con đường tu tập, nhưng không xem nó là bắt buộc.

---

### **4. Mahakassapa và chuyện “giữ cả hai”?**
Mày kể rằng Mahakassapa tu Dhutanga nửa đời, rồi theo Phật, sau đó xin tiếp tục Dhutanga vì “thẹn” hay “chắc ăn”. Cái này hơi bị “hư cấu” rồi.

- **Sự thật về Mahakassapa:** Ngài vốn là người giàu có, từ bỏ tất cả để làm du sĩ trước khi gặp Đức Phật. Sau khi quy y, ngài chọn Dhutanga vì **tính cách cá nhân**—thích sống đơn giản, tránh phiền não—chứ không phải “thẹn” hay “giữ hai đường”. Đức Phật tôn trọng lựa chọn này, thậm chí còn trao áo của mình cho ngài (theo **Samyutta Nikaya**).
- **Không có bằng chứng “thẹn”:** Kinh điển không ghi chuyện ngài xin tiếp tục Dhutanga vì ngại với phái cũ hay để “chắc ăn Niết Bàn”. Ngài được xem là bậc A-la-hán, hoàn toàn giác ngộ, nên chẳng có lý do gì để “giữ hai ghế” cả.

---

### **5. Dhutanga có dẫn đến Niết Bàn không?**
Mày nói Dhutanga không phải con đường lên Niết Bàn, và mấy người như Minh Tuệ hiểu sai. Điểm này mày đúng một phần.

- **Con đường chính:** Đức Phật dạy giác ngộ đến từ **Bát Chánh Đạo** (Đạo đế trong Tứ Diệu Đế), chứ không phải từ bất kỳ thực hành nào riêng lẻ như Dhutanga. Dhutanga chỉ là **công cụ hỗ trợ**, giúp giảm tham sân si và dễ nhập định.
- **Không bắt buộc:** Nhiều vị A-la-hán đạt Niết Bàn mà chẳng cần Dhutanga. Ngược lại, thực hành Dhutanga mà chấp vào nó (nghĩ khổ hạnh là tất cả) thì lại lạc lối.

---

### **6. Minh Tuệ và “trend” Dhutanga ngày nay**
Mày bảo Minh Tuệ đọc ít kinh, hiểu sai, tạo trend khắc khổ, và dân chúng đua theo vì mê tín. Tao không có đủ thông tin về Minh Tuệ để phán xét cá nhân ông ấy, nhưng tao đồng ý vài điểm:

- **Hiểu sai:** Nếu ai đó nghĩ Dhutanga là con đường duy nhất hay nhanh nhất để giác ngộ thì đúng là lệch khỏi lời Phật. Đức Phật không bao giờ nói vậy.
- **Thực tế hiện nay:** Ở Thái Lan, Myanmar, các vị tăng rừng (forest monks) vẫn thực hành Dhutanga—như ở truyền thống Thiền Lâm (Thai Forest Tradition)—và được kính trọng. Nó không “lỗi thời” như mày nói, mà là lựa chọn chính đáng trong một số truyền thống Theravada.
- **Dư luận:** Đúng là ở Việt Nam, truyền thông và một số Phật tử có thể thổi phồng Dhutanga, biến nó thành “trend” kiểu so kè ai khổ hơn. Đây không phải ý nghĩa gốc của nó.

---

### **7. Nhà nghiên cứu ít nói về Dhutanga vì “đi ngược Phật giáo”?**
Mày bảo các học giả Phật giáo hiếm nhắc Dhutanga vì nó “đi ngược” Phật giáo. Sai bét!

- **Tài liệu:** Dhutanga được nghiên cứu nhiều trong giới học thuật, đặc biệt ở các công trình về giới luật và lịch sử tăng đoàn. Nó không “đi ngược” mà là một phần của Phật giáo sơ kỳ, được ghi trong **Vinaya** (Luật Tạng) và các kinh Nikaya.
- **Không phải cốt lõi:** Lý do ít nhắc không phải vì nó bị coi là sai, mà vì nó không phải trọng tâm của Phật giáo (Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo mới là chính).

---

### **Tổng kết**
Tao tóm lại cho mày nhé:

- **Dhutanga có trong kinh điển:** Được nhắc trong Pali Canon (Tam Tạng), không phải chỉ là “ghi chú sơ sài”.
- **Không phải gốc Bà La Môn:** Đức Phật cải biên từ văn hóa khổ hạnh thời đó, biến nó thành công cụ Phật giáo, không phải “copy” nguyên xi.
- **Thái độ Đức Phật:** Ủng hộ khi đúng tâm thái, nhưng không bắt buộc. Mahakassapa là ví dụ điển hình, không phải “giữ hai ghế”.
- **Không phải đường Niết Bàn:** Chỉ là hỗ trợ, không phải cốt lõi.
- **Ngày nay:** Vẫn được thực hành ở Theravada, nhưng có thể bị hiểu sai ở vài nơi như mày nói.

Mày có vài ý đúng (như Dhutanga không phải con đường chính, dễ bị lạm dụng thành trend), nhưng nhiều chỗ mày “chém gió” hơi quá, thiếu căn cứ kinh điển. Nếu muốn cãi tiếp thì đưa bằng chứng cụ thể ra, tao sẵn sàng “đối đáp”!

Đm tao đã nói đây là thời đại của AI, đừng có phát biểu liều thì đéo nghe, lòi ra toàn kiến thức dốt đặc cán mai
Lại thêm 1 tk mọt sách, lấy AI ra vẽ nội dung rồi tự đánh giá tao trả lời đúng mỗi câu được bao nhiêu % đúng: đúng 1 phần, đúng 1/2, đúng 1/3,...
tao nghe mà mắc cười
Nội dung những gì tao nêu ra là tao lấy trên trang Web Tạp Chí Nghiên Cứu Phật Giáo:
https://tapchinghiencuuphathoc.vn/hanh-dau-da-cua-devadata.html
Toàn những chuyên gia trong lĩnh vực, họ nghiên cứu sách vở Phật từ cổ chí kim cả hàng ngàn năm và công bố nó trên tạp chí để mọi người thảo luận.
Còn ông Minh Tuệ, cầm vài cuốn sách Phật bán ngoài chợ vài năm, cũng chưa biết ổng có thời gian nghiên cứu đa chiều về PG hay không, hay đang đọc đến trang có chữ Hạnh Đầu Đà thì liền gấp sách vứt bỏ những trang còn lại không đọc nữa rồi lấy cái nồi sắt, may mấy tấm vải đi dọc bộ ngoài đường và bảo tu Hạnh Đầu Đà để lên Phật.
Tao trích dẫn ra để nói về nguồn gốc 13 hạnh đầu đà:
Ang6slx.png


Tụi mày còn gì để nói không @DerKanzler , @atlas05 ?
Tụi mày còn gân cổ cải Hạnh Đầu Đà thời Phật Thích Ca và sau thời Phật Thích Ca là 2 hay là 1 chưa?
Ông Thích Ca mém chết, nên mới dặn đệ tử mình không theo, sách Phật sau này kể câu chuyện có vài người nghĩ rằng để chắc ăn lên Niết Bàn thoát vòng luân hồi nên mới mới chọn tu theo.
Ông Minh Tuệ đọc đến đây nghĩ học Phật thôi chưa đủ nên tham chơi thêm món Hạnh Đầu Đà cho chắc ăn.
Nhưng tham thì thâm, dốt thì ngu nên tự hủy hoại bản thân chứ chẳng giúp ích gì cho bản thân tu tập cả.
Rãnh rỗi thì chạy bộ qua bệnh viện 115 giường xem có ai khó khăn thì giúp họ, đó cũng là cách tu hiệu quả, còn hơn xây 7 tòa tháp hay đi bộ từ VN đến Ai Cập.
Tụi mày thấy tao nói có đúng không? @ruataito
 
Lại thêm 1 tk mọt sách, lấy AI ra vẽ nội dung rồi tự đánh giá tao trả lời đúng mỗi câu được bao nhiêu % đúng: đúng 1 phần, đúng 1/2, đúng 1/3,...
tao nghe mà mắc cười
Nội dung những gì tao nêu ra là tao lấy trên trang Web Tạp Chí Nghiên Cứu Phật Giáo:
https://tapchinghiencuuphathoc.vn/hanh-dau-da-cua-devadata.html
Toàn những chuyên gia trong lĩnh vực, họ nghiên cứu sách vở Phật từ cổ chí kim cả hàng ngàn năm và công bố nó trên tạp chí để mọi người thảo luận.
Còn ông Minh Tuệ, cầm vài cuốn sách Phật bán ngoài chợ vài năm, cũng chưa biết ổng có thời gian nghiên cứu đa chiều về PG hay không, hay đang đọc đến trang có chữ Hạnh Đầu Đà thì liền gấp sách vứt bỏ những trang còn lại không đọc nữa rồi lấy cái nồi sắt, may mấy tấm vải đi dọc bộ ngoài đường và bảo tu Hạnh Đầu Đà để lên Phật.
Tao trích dẫn ra để nói về nguồn gốc 13 hạnh đầu đà:
Ang6slx.png


Tụi mày còn gì để nói không @DerKanzler , @atlas05 ?
Tụi mày còn gân cổ cải Hạnh Đầu Đà thời Phật Thích Ca và sau thời Phật Thích Ca là 2 hay là 1 chưa?
Ông Thích Ca mém chết, nên mới dặn đệ tử mình không theo, sách Phật sau này kể câu chuyện có vài người nghĩ rằng để chắc ăn lên Niết Bàn thoát vòng luân hồi nên mới mới chọn tu theo.
Ông Minh Tuệ đọc đến đây nghĩ học Phật thôi chưa đủ nên tham chơi thêm món Hạnh Đầu Đà cho chắc ăn.
Nhưng tham thì thâm, dốt thì ngu nên tự hủy hoại bản thân chứ chẳng giúp ích gì cho bản thân tu tập cả.
Rãnh rỗi thì chạy bộ qua bệnh viện 115 giường xem có ai khó khăn thì giúp họ, đó cũng là cách tu hiệu quả, còn hơn xây 7 tòa tháp hay đi bộ từ VN đến Ai Cập.
Tụi mày thấy tao nói có đúng không? @ruataito
Những gì tao trích ra đều lấy từ kinh phật
Tao đéo lấy từ sách nào cả.
Devadatta là cách tu của ổng đề xuất.
Đéo liên quan hạnh đầu đà
Và Phật Thích Ca bảo là không ép buộc tỳ kheo ai muốn tu cách nào thì tu chỉ cần không vi phạm giới luật
 
Lại thêm 1 tk mọt sách, lấy AI ra vẽ nội dung rồi tự đánh giá tao trả lời đúng mỗi câu được bao nhiêu % đúng: đúng 1 phần, đúng 1/2, đúng 1/3,...
tao nghe mà mắc cười
Nội dung những gì tao nêu ra là tao lấy trên trang Web Tạp Chí Nghiên Cứu Phật Giáo:
https://tapchinghiencuuphathoc.vn/hanh-dau-da-cua-devadata.html
Toàn những chuyên gia trong lĩnh vực, họ nghiên cứu sách vở Phật từ cổ chí kim cả hàng ngàn năm và công bố nó trên tạp chí để mọi người thảo luận.
Còn ông Minh Tuệ, cầm vài cuốn sách Phật bán ngoài chợ vài năm, cũng chưa biết ổng có thời gian nghiên cứu đa chiều về PG hay không, hay đang đọc đến trang có chữ Hạnh Đầu Đà thì liền gấp sách vứt bỏ những trang còn lại không đọc nữa rồi lấy cái nồi sắt, may mấy tấm vải đi dọc bộ ngoài đường và bảo tu Hạnh Đầu Đà để lên Phật.
Tao trích dẫn ra để nói về nguồn gốc 13 hạnh đầu đà:
Ang6slx.png


Tụi mày còn gì để nói không @DerKanzler , @atlas05 ?
Tụi mày còn gân cổ cải Hạnh Đầu Đà thời Phật Thích Ca và sau thời Phật Thích Ca là 2 hay là 1 chưa?
Ông Thích Ca mém chết, nên mới dặn đệ tử mình không theo, sách Phật sau này kể câu chuyện có vài người nghĩ rằng để chắc ăn lên Niết Bàn thoát vòng luân hồi nên mới mới chọn tu theo.
Ông Minh Tuệ đọc đến đây nghĩ học Phật thôi chưa đủ nên tham chơi thêm món Hạnh Đầu Đà cho chắc ăn.
Nhưng tham thì thâm, dốt thì ngu nên tự hủy hoại bản thân chứ chẳng giúp ích gì cho bản thân tu tập cả.
Rãnh rỗi thì chạy bộ qua bệnh viện 115 giường xem có ai khó khăn thì giúp họ, đó cũng là cách tu hiệu quả, còn hơn xây 7 tòa tháp hay đi bộ từ VN đến Ai Cập.
Tụi mày thấy tao nói có đúng không? @ruataito
Ngu như con chó vậy?
Còn nếu mày nói vậy thì các sư đại thừa chỉ ăn chay cũng là học theo hạnh đầu đà của đề bà đạt đa à?
Toàn bộ giáo hội Phật giáo Việt Nam đều là học trò của đề bà đạt đa à
 
Ngu như con chó vậy?
Còn nếu mày nói vậy thì các sư đại thừa chỉ ăn chay cũng là học theo hạnh đầu đà của đề bà đạt đa à?
Toàn bộ giáo hội Phật giáo Việt Nam đều là học trò của đề bà đạt đa à
theo mày hiểu đoạn này như nào ?

Pali:
Na kho, bhikkhave, bhikkhū sensā samudāyānaṃ, na ca kho, bhikkhave, bhikkhū attanissayena tapaṃ anupubbasikkhitabbaṃ.

Translation:
“Monks, a monk should not be devoted to sensual pleasures, nor should he cultivate self‐mortification.”

đây là đoạn duy nhất nói về "con đường trung đạo" , và t có thể tiết lộ cho m là TẤT CẢ giới nghiên cứu phật giáo hiện tại đều diễn giải sai bét về "con đường trung đạo" này
 
theo mày hiểu đoạn này như nào ?

Pali:
Na kho, bhikkhave, bhikkhū sensā samudāyānaṃ, na ca kho, bhikkhave, bhikkhū attanissayena tapaṃ anupubbasikkhitabbaṃ.

Translation:
“Monks, a monk should not be devoted to sensual pleasures, nor should he cultivate self‐mortification.”

đây là đoạn duy nhất nói về "con đường trung đạo" , và t có thể tiết lộ cho m là TẤT CẢ giới nghiên cứu phật giáo hiện tại đều diễn giải sai bét về "con đường trung đạo" này
Con đường trung đạo là không phải khổ hạnh như bà la môn của shiva cũng như nuôi dưỡng thân tâm như một người bình thường vẫn đang sống.
Tức ăn 3 bữa mặc quần áo thay đổi ở trong một ngôi nhà bình thường chăm sóc thân thể làm nô lệ cho thân tâm
Con đường trung đạo chính là giới luật của một vị tỳ kheo: 5 giới 8 giới cư sĩ
10 giới sa di, 250 giới tỳ kheo hay 311 giới hoặc 348 giới sa di ni
Hiện tại tất cả các người xuất gia hiện nay đa số đều không phải con đường trung đạo.
 
Sửa lần cuối:
Con đường trung đạo là không phải khổ hạnh như bà la môn của shiva cũng như nuôi dưỡng thân như một người bình thường vẫn đang sống.
Tức ăn 3 bữa mặc quần áo thay đổi chăm sóc thân thể làm nô lệ cho thân
Hiện tại tất cả các người xuất gia hiện nay đa số đều không phải con đường trung đạo.
vừa đúng lại vừa ko đúng,

con đường trung đạo nó ko có định nghĩa rõ ràng, nó chỉ có 1 khái niệm là nằm giữa sự thoải mái và sự khổ hạnh ép xác

nếu quá thoải mái sẽ dẫn đến sự ngu ngốc

Pāli:
Dve'me, bhikkhave, antā pabbajitena na sevitabbā. Katame dve? Yo c'āyaṃ kāmasukhallikānuyogo hīno gammo pothujjaniko anariyo anatthasaṃhito.
Translation:
“Monks, these two extremes should not be followed by one who has gone forth. What are the two? That which is devoted to sensual pleasures, which is low, vulgar, worldly, ignoble, and unbeneficial.”

ngược lại, nếu quá ép xác, khổ hạnh, sẽ dẫn đến sự hoang tưởng có thể đắc đạo

The second extreme, attakilamathānuyoga, refers to excessive austerity and self-denial in an attempt to attain spiritual purification. The same sutta states:

Pāli:
Yo c'āyaṃ attakilamathānuyogo dukkho anariyo anatthasaṃhito.
Translation:
“And that which is devoted to self-mortification, which is painful, ignoble, and unbeneficial.”

con đường đúng đắn là con đường trung đạo, ở giữa, ko thoải mái nhưng cũng ko ép xác, giác ngộ bằng trí tuệ

Conclusion: The Middle Way

Rejecting both extremes, the Buddha declared:

Pāli:
Ete te ubho ante anupagamma majjhimā paṭipadā tathāgatena abhisambuddhā cakkhukaraṇī ñāṇakaraṇī upasamāya abhisaṃbodhāya nibbānāya saṃvattati.
Translation:
“Avoiding these two extremes, the Tathāgata has awakened to the Middle Way, which gives rise to vision, gives rise to knowledge, and leads to peace, direct knowledge, enlightenment, and Nibbāna.”
The majjhima-paṭipadā is neither indulgence nor self-torture, but a balanced path leading to wisdom (paññā), meditation (samādhi), and ultimately Nibbāna.

NHƯNG, như nào mới là thoải mái và như nào là khổ hạnh ép xác ? Cái này nó còn phụ thuộc vô tình trạng cơ thể, trạng thái thực tế, cái ông phật chỉ ra với dhutanga, là nó là 1 pháp tu khổ hạnh NHƯNG không ép xác, tức cái dhutanga này là 1 cái chặn trên, vì nếu 1 tu sĩ nào đó thực hành pháp tu khổ hạnh, ban đầu sẽ là ép xác, nhưng lâu dần cơ thể r sẽ quen, và khi này tu sĩ nhầm tưởng cảm giác "quen" này là thoải mái --> ép xác nhiều hơn cho tới khi thành bộ xương khô như này luôn :v


còn lý do vì sao tất cả giới nghiên cứu phật giáo này đều đéo hiểu con đường trung đạo, tại vì con đường trung đạo này là con đường cần phải thực hành, cần phải chiêm nghiệm, ko phải lôi kinh kệ ra soi từng chữ như nào là đúng như nào là đéo đúng, như nào là thoải mái như nào là khổ hạnh ép xác --> ko thực hành thì mãi mãi ko hiểu đc

còn 1 cái rất là "tự mâu thuẫn" của con đường trung đạo, đó là nếu ông nào đó hiểu ra, thì sẽ thấy con đường này hoàn toàn là do cá nhân tự diễn giải ra từ quá trình tu tập 13 hạnh đầu đà, nó xảy ra sự "tự mâu thuẫn", tức là sự nghi ngờ liệu có đang đi đúng chánh pháp, chánh đạo hay ko, hay là đang "tự phát minh" ra 1 loại phật giáo mới, và như vậy liệu có phải là tà đạo ?

tóm lại, thay vì đi thực hành con đường trung đạo phật để lại, thì giới phật giáo lại chìm đắm trong bắt lỗi con chữ kinh kệ, và lại càng chìm trong sự thoải mái ( sensual pleasures ) ---> càng bắt lỗi càng thấy tự mâu thuẫn, và càng vô minh

dhutanga nó như 1 cái đường cao tốc cho tu hành, nhưng có thể đi đc trên đó ko, thì còn phải tùy vô xe và động cơ, ông tuệ trước khi thực hành dhutanga, cũng phải mất đâu 2 năm tập ăn 1 bữa, tập ngủ ngồi r gì đó đ nhớ, với người thế tục ko tu thì nhìn dhutanga như khổ hạnh ép xác, còn với ông tuệ thì nó là trung đạo
 
Lại thêm 1 tk mọt sách, lấy AI ra vẽ nội dung rồi tự đánh giá tao trả lời đúng mỗi câu được bao nhiêu % đúng: đúng 1 phần, đúng 1/2, đúng 1/3,...
tao nghe mà mắc cười
Nội dung những gì tao nêu ra là tao lấy trên trang Web Tạp Chí Nghiên Cứu Phật Giáo:
https://tapchinghiencuuphathoc.vn/hanh-dau-da-cua-devadata.html
Toàn những chuyên gia trong lĩnh vực, họ nghiên cứu sách vở Phật từ cổ chí kim cả hàng ngàn năm và công bố nó trên tạp chí để mọi người thảo luận.
Còn ông Minh Tuệ, cầm vài cuốn sách Phật bán ngoài chợ vài năm, cũng chưa biết ổng có thời gian nghiên cứu đa chiều về PG hay không, hay đang đọc đến trang có chữ Hạnh Đầu Đà thì liền gấp sách vứt bỏ những trang còn lại không đọc nữa rồi lấy cái nồi sắt, may mấy tấm vải đi dọc bộ ngoài đường và bảo tu Hạnh Đầu Đà để lên Phật.
Tao trích dẫn ra để nói về nguồn gốc 13 hạnh đầu đà:
Ang6slx.png


Tụi mày còn gì để nói không @DerKanzler , @atlas05 ?
Tụi mày còn gân cổ cải Hạnh Đầu Đà thời Phật Thích Ca và sau thời Phật Thích Ca là 2 hay là 1 chưa?
Ông Thích Ca mém chết, nên mới dặn đệ tử mình không theo, sách Phật sau này kể câu chuyện có vài người nghĩ rằng để chắc ăn lên Niết Bàn thoát vòng luân hồi nên mới mới chọn tu theo.
Ông Minh Tuệ đọc đến đây nghĩ học Phật thôi chưa đủ nên tham chơi thêm món Hạnh Đầu Đà cho chắc ăn.
Nhưng tham thì thâm, dốt thì ngu nên tự hủy hoại bản thân chứ chẳng giúp ích gì cho bản thân tu tập cả.
Rãnh rỗi thì chạy bộ qua bệnh viện 115 giường xem có ai khó khăn thì giúp họ, đó cũng là cách tu hiệu quả, còn hơn xây 7 tòa tháp hay đi bộ từ VN đến Ai Cập.
Tụi mày thấy tao nói có đúng không? @ruataito

khổ hạnh ép xác là như này nè thằng ngu, tầm dhutanga chưa thể gọi là khổ hạnh ép xác đc đâu
 
vừa đúng lại vừa ko đúng,

con đường trung đạo nó ko có định nghĩa rõ ràng, nó chỉ có 1 khái niệm là nằm giữa sự thoải mái và sự khổ hạnh ép xác

nếu quá thoải mái sẽ dẫn đến sự ngu ngốc




ngược lại, nếu quá ép xác, khổ hạnh, sẽ dẫn đến sự hoang tưởng có thể đắc đạo

The second extreme, attakilamathānuyoga, refers to excessive austerity and self-denial in an attempt to attain spiritual purification. The same sutta states:




con đường đúng đắn là con đường trung đạo, ở giữa, ko thoải mái nhưng cũng ko ép xác, giác ngộ bằng trí tuệ

Conclusion: The Middle Way

Rejecting both extremes, the Buddha declared:



The majjhima-paṭipadā is neither indulgence nor self-torture, but a balanced path leading to wisdom (paññā), meditation (samādhi), and ultimately Nibbāna.

NHƯNG, như nào mới là thoải mái và như nào là khổ hạnh ép xác ? Cái này nó còn phụ thuộc vô tình trạng cơ thể, trạng thái thực tế, cái ông phật chỉ ra với dhutanga, là nó là 1 pháp tu khổ hạnh NHƯNG không ép xác, tức cái dhutanga này là 1 cái chặn trên, vì nếu 1 tu sĩ nào đó thực hành pháp tu khổ hạnh, ban đầu sẽ là ép xác, nhưng lâu dần cơ thể r sẽ quen, và khi này tu sĩ nhầm tưởng cảm giác "quen" này là thoải mái --> ép xác nhiều hơn cho tới khi thành bộ xương khô như này luôn :v


còn lý do vì sao tất cả giới nghiên cứu phật giáo này đều đéo hiểu con đường trung đạo, tại vì con đường trung đạo này là con đường cần phải thực hành, cần phải chiêm nghiệm, ko phải lôi kinh kệ ra soi từng chữ như nào là đúng như nào là đéo đúng, như nào là thoải mái như nào là khổ hạnh ép xác --> ko thực hành thì mãi mãi ko hiểu đc

còn 1 cái rất là "tự mâu thuẫn" của con đường trung đạo, đó là nếu ông nào đó hiểu ra, thì sẽ thấy con đường này hoàn toàn là do cá nhân tự diễn giải ra từ quá trình tu tập 13 hạnh đầu đà, nó xảy ra sự "tự mâu thuẫn", tức là sự nghi ngờ liệu có đang đi đúng chánh pháp, chánh đạo hay ko, hay là đang "tự phát minh" ra 1 loại phật giáo mới, và như vậy liệu có phải là tà đạo ?

tóm lại, thay vì đi thực hành con đường trung đạo phật để lại, thì giới phật giáo lại chìm đắm trong bắt lỗi con chữ kinh kệ, và lại càng chìm trong sự thoải mái ( sensual pleasures ) ---> càng bắt lỗi càng thấy tự mâu thuẫn, và càng vô minh

dhutanga nó như 1 cái đường cao tốc cho tu hành, nhưng có thể đi đc trên đó ko, thì còn phải tùy vô xe và động cơ, ông tuệ trước khi thực hành dhutanga, cũng phải mất đâu 2 năm tập ăn 1 bữa, tập ngủ ngồi r gì đó đ nhớ, với người thế tục ko tu thì nhìn dhutanga như khổ hạnh ép xác, còn với ông tuệ thì nó là trung đạo
Tao thấy một tỳ kheo tuân thủ đủ giới luật thì đó chính là con đường trung đạo
Tuân thủ không đủ giới luật để hưởng thụ cho bản thân là thiên vào dục lạc thân tâm

 
Tao thấy một tỳ kheo tuân thủ đủ giới luật thì đó chính là con đường trung đạo
Tuân thủ không đủ giới luật để hưởng thụ cho bản thân là thiên vào dục lạc thân tâm
5 giới cũng là con đường trung đạo mà 250 giới cũng là con đường trung đạo
 
Hiên tại khổ hạnh ép xác còn tồn tại ở Ấn Độ ở các đạo sư yoga theo phái khổ hạnh thờ shiva và phái khổ hạnh đạo jain nguyên thủy
Những người này tin càng hành hạ bản thân họ càng dễ đắc đạo.
Vd như ông này

Người đàn ông đã giơ tay hơn 45 năm vì lý do không ai ngờ

07/12/2021 - 06:36

Người đàn ông Ấn Độ đã giơ cao một cánh tay suốt hơn 45 năm qua và chưa có kế hoạch hạ xuống.


Amar Bharati, người đàn ông đã giơ tay hơn 45 năm


Phần lớn mọi người đều đã trải qua khoảnh khắc phải giơ tay cao hướng lên trời trong một khoảng thời gian nhất định. Nhưng thông thường chỉ giơ lên khoảng vài ba phút vì sau đó cánh tay của bạn có thể bắt đầu đau nhức. Khi đó, bạn có hai lựa chọn, một là hạ cánh tay xuống và đưa tay kia lên, hai là dùng tay còn lại để đỡ khuỷu tay.
Tuy nhiên có một người đàn ông Ấn Độ đã liên tục thực hiện động tác giơ cánh tay suốt hơn 45 năm qua.
Vào một ngày, người đàn ông có tên Amar Bharati bất ngờ quyết định giơ một cánh tay của mình lên và chưa bao giờ hạ xuống.
Năm 1973, Amar Bharati làm việc tại một ngân hàng ở Ấn Độ, ông kết hôn và có ba người con. Cuộc sống của Amar Bharati diễn ra bình thường, đơn giản như rất nhiều người đàn ông khác ở Ấn Độ.
Nhưng đột nhiên một ngày, Amar Bharati quyết định từ bỏ mọi thứ để dâng hiến toàn bộ cuộc đời của mình cho Shiva, một vị thần Hindu. Để thực sự phục vụ niềm tin tôn giáo của mình, Amar Bharati nảy ra một ý tưởng đó là quyết định sẽ giơ tay lên và không bao giờ hạ xuống.

Giơ tay cao suốt nhiều năm khiến cánh tay Amar Bharati bị teo lại


Amar Bharati đã khiến cả thế giới sửng sốt sau khi bức ảnh ông được chụp hình với cánh tay giơ cao vào những năm 1970.
Amar Bharati cho biết: "Tôi không đòi hỏi nhiều. Tôi luôn tự hỏi tại sao chúng ta phải đấu tranh, phải ganh đua lẫn nhau, có quá nhiều hận thù. Tôi muốn tất cả mọi người trên thế giới được sống trong hòa bình
Amar Bharati chia sẻ rằng lúc đầu cánh tay của ông rất đau đớn. Sau khoảng hai năm, cơn đau bắt đầu giảm dần và sau đó Amar Bharati mất cảm giác, cánh tay ông giơ cao dần bị teo lại. Đến một ngày, ngay cả việc hạ cánh tay xuống Amar Bharati cũng gặp khó khăn nếu không có sự chuẩn bị kỹ lưỡng. Ông bị tổn thương dây thần kinh vĩnh viễn và mất tuần hoàn.
Cảm hứng từ cử chỉ của Amar Bharati đã thúc đẩy hàng nghìn người trên khắp thế giới chiến đấu, theo cách riêng của họ, vì hòa bình thế giới. Thú vị hơn nữa, cử chỉ này đã truyền cảm hứng cho những người Ấn Độ khác trở thành Sadhu (nhà sư Hindu) và giơ tay cao trong thời gian dài, nhưng không ai có thể vượt qua kỷ lục của Bharati. Người đàn ông này vẫn tiếp tục giơ tay cao và chưa có ý định đặt xuống
 
Thằng ngu nào sủa câu này vậy?
Người đi lái xe không có bằng thì công an không cho lái xe
Người đi phẩu thuật không có bằng thì bác sỹ không cho mổ xẻ
Người đi giảng Phật không có bằng thì Thích Ca không cho giảng đạo.

Bác sỹ có quyền cấm mổ ah. Còn ông Phật bao dung chả cấm ai bao giờ.
 
Cái này là delusion- ảo tưởng đắc đạo mà ông Phật đã nói
Thời Đức Phật đã có những nhóm như vậy:

Nhiều nhóm người tự giải phóng ấy có thể được chia thành bốn loại người tầm cầu cứu độ:

1.Nhóm Aupanisadas (Áo Nghĩa Thư)

2.Nhóm Duy vật luận

3.Nhóm Khổ hạnh hành xác.

4.Nhóm du sĩ hành khất.

Thái tử Gotama đến tiếp xúc với tất cả mọi nhóm này trong một thời gian dài hay ngắn tùy trượng hợp, và mỗi nhóm không nhiều thì ít đều đóng góp phần nào vào hệ thống giáo lý của ngài.
Nhóm khổ hạnh: Chữ Phạn “tapasvin”, “khổ hạnh” thường được dịch là “ăn năn hối cải” một cách sai lầm. Sự ăn năn hối cải là một cố gắng bù đắp tội lỗi đã phạm, còn khổ hạnh theo nghĩa Ấn Độ là một cố gắng tạo dựng tương lai. Nó dựa trên niềm tin rằng sự hành xác (tapas là phươngtiện) tạo ra nhiệt lượng (tapas là kết quả) nghĩa là một thần lực tâm linh có thể được tích trữ để sử dụng vào mục đích giải thoát. Điều kiện tiên quyết để thành công là tuyệt đối tiết dục. Nếu người theo khổ hạnh bị nhục dục lôi cuốn, thần lực tapas được tích trữ kia lập tức biến mất hoàn toàn.

Theo niềm tin được phổ biến giữa nhiều người, nhà tu khổ hạnh chứng đắc thần thông do tích lũy ngày càng nhiều thần lực tapas. Trong kinh Rg Veda ta đã biết rằng thần Indra, Thiên Chủ, đạt ngôi cao trên thiên đình nhờ có tapas, nhưng mãi đến các thế kỷ thứ bảy, thứ sáu trước CN, thuyết thần lực tapas mới trở nên thực sự thịnh hành.

Trong văn học Ấn Độ hậu Phật giáo, thuyết này đóng một vai trò quan trọng và chúng ta thường nghe nói nhiều về các nhà tu khổ hạnh trở thành những địch thủ nguy hiểm của thần linh nhờ năng lực tapasđược tích trữ. Các Thiên thần, tìm cách đối phó, liền phái một tiên nữ diễm lệ xuống trần quyến rũ vị khổ hạnh và do đó phá hủy hết công lực của vị này.

Việc các tế sư Bà-la-môn phản đối phong trào khổ hạnh là điều dễ hiểu. Không chỉ người khổ hạnh rời bỏ gia đình, làng xóm làm giảm số khách cúng tế, mà vị khổ hạnh còn thay thế cáchdâng hiến lễ vật bằng cách hy sinh mọi lạc thú của riêng mình, do đó chứng minh rằng có một con đường tự giải thoát cho mỗi người, nên đã làm giảm giá trị của lễ giáo cổ truyền. Theo quan điểm các Bà-la-môn việc chấp nhận đời khổ hạnh hoặc làm du sĩ khất thực chỉ hợp lý trong trường hợp một người đến độ lão niên, đã hoàn thành việc chăm sóc gia đình, đã thực hiện các phận sự của giai cấp mình, và đã có con trai thay thế chức vụ ấy trong đời sống gia đình và xã hội.

Những dấu hiệu bề ngoài của một vị khổ hạnh là từ bỏ tài sản, gia đình, để tóc râu xồm xoàm và thông thường là hoàn toàn lõa thể. Họ sống ẩn dật trong rừng rậm, hoặc thành từng nhóm nhỏ trong các “khóm rừng khổ hạnh”, trong cả hai trường hợp đó đều xa làng xóm thị thành để khỏi bị các gia chủ quấy rầy hay bầy con gái họ khiêu khích dục tình. Nếu một vị khổ hạnh hành trì giới luật khắc khe trong một thời gian dài, vị ấy được xem là thánh thiện và làng xóm lân cận sẽ tự hào đến cung cấp cho vị ấy vài nhu cầu tối thiểu.

Mục đích của một số vị hành trì khổ hạnh khắc nghiệt đôi khi lại không cao thượng lắm đâu. Vì tục ngữ có câu “Cái gì ta không cần thiết hiện nay sẽ được đền bù gấp mười lần”nên cũng không ít vị khổ hạnh đã nhắm trực tiếp đến lạc thú đời sau như mục đích tối hậu của các nỗ lực cá nhân mà từ bỏ lạc thú hiện tại. Đối với một số khác lại lấy mục đích nửa vời làm động cơ phát triển các thần thông do tích trữ công năng khổ hạnh, ví dụ bay như chim, đi trên nước, băng qua tường, biết các vật ở xa hoặc dấu kín, đoán quá khứ, tương lai.

Những năng lực vượt các quy luật tự nhiên hay giới hạn vật chất ấy vẫn thường được quần chúng gán cho những nhà khổ hạnh tu tập lâu năm và được họ ngưỡng mộ dù không có bằng cớ. Song đối với những vị có trí tuệ cao thâm thì mục đích duy nhất xứng đáng tu tập khổ hạnh là sự giải thoát, cho dù giải thoát được quan niệm như sự cọng trú với chư Thiên, hay hợp nhất với một vị thần nào đó, hoặc liễu tri cái Tuyệt Đối và thể nhập vào trong ấy.

Mục đích của các nhà khổ hạnh đều ít nhiều theo lề lối cũ, nhưng phương pháp thì không. Trình độ cao từ những cách hành thiền tinh tế qua các phép thực hiện đặc biệt kỳ dị xuống tận các kiểu tự hành xác thật khủng khiếp ghê tởm, trong số ấy có hình thức phô trương lõa thể là rõ ràng nhất.

Giữa các hình thức kỳ quái hơn nữa là vị khổ hạnh kiểu con bò và chó như trong Trung Bộ Kinh số 37* . Theo bản sớ giải, vị khổ hạnh kiểu con bò mang sừng trên đầu và cột đuôi bò vào mình, rồi thích sống giữa đàn gia súc, còn vị lõa thể theo hạnh con chó thường ngồi: ăn dưới đất, sủa và ngủ cuộn mình lại như con chó!

Hình thức khổ hạnh sơ đẳng nhất là nhịn ăn, đôi khi đến chết. Một số vị khổ hạnh chỉ ăn trái cây hoặc những thứ mọc dưới đất, một số khác chỉ ăn chất lỏng. Một ý kiến độc đáo hơn là nhịn ăn theo tuần trăng: vị khổ hạnh không ăn gì cả vào tuần trăng non, sau đó cho đến tuần trăng tròn họ cứ ăn một muỗng và tăng dần lên mỗi ngày, cuối cùng lại giảm ăn như vậy cho đến tuần trăng mới.

Các tư thế nằm ngồi cũng trở thành phép khổ hạnh. Một số vị đứng suốt ngày dưới nước đến tận hông, một số vị khổ hạnh “kiểu con dơi” thích treo người trên cây ngang qua đầu gối vài giờ mỗi ngày. Có vị luôn ngồi, có vị khác luôn cong người lại, không bao giờ thẳng ra, có vị luôn đứng thẳng trên một chân cho đến khi cây leo mọc quanh mình. Một số khác không hề ngủ, hoặc chỉ nằmtrên giường đinh và đống gai. Thỉnh thoảng lại có các vị khổ hạnh “thờ năm ngọn lửa” ngồi theo thế hoa sen giữa bốn ngọn lửa với mặt và đôi mắt đã mù từ lâu hướng về ngọn lửa thứ năm là mặt trời.

Số người tự hủy hoại thân xác rất nhiều: có kẻ cắt một tay hay chân, kẻ khác lại bẻ gãy nó rồi cho nó mọc ra một góc kỳ quái. Rất thường thấy các người cố ý để cho cánh tay hư nát bằng cách treo ngược lên, hoặc các phép khổ hạnh đi kèm với lời nguyện im lặng, đôi khi rất nghiêm khắc đến độ người ấy không thể đáp lại dù chỉ bằng dáng điệu hay gật đầu.

Tuy nhiên, quan trọng hơn các phép khổ luyện thân xác này là những phép tu tập tinh thần tự chủ. Nhiều vị thực hành các phép luyện hơi thở theo nhịp vào ra điều hòa và do đó tạo nên tâm trạng an lạc. Vị ấy chuyên chú sâu vào nội tâm trong trạng thái thiền định. Giai đoạn trầm tư mặc tưởng sâu nhất là một trạng thái tâm nhập định được xem như giải thoát nhất thờ.
 
Vậy nên tao mới nói tụi mày mắc bệnh adua đám đông, chứ thực ra không phân biệt ra cái gì thực tế tụi mày đang học.
Thấy người ta gọi là thầy thì cũng hùa theo gọi là thầy, dù không chung con đường học đạo với mình.
Tụi mày chỉ thích nghe ông Minh Tuệ nói, nhưng lấy sách Phật Thích Ca thì lại lười đọc, lười phân tích.
Tao trích lời Phật Thích Ca cho mày rõ:
Đức Phật nói:
- Này các tỳ kheo, đừng gọi Như Lai là Hiền giả. Như Lai là bậc A La Hán, là bậc giác ngộ. Như Lai đã giải thoát, đã dập tắt mọi ái thủ, đã chiến thắng vô minh, đã dừng lại luân hồi. Và như vậy, này các tỳ kheo, đừng gọi Như Lai là Hiền giả.
Này các tỳ kheo, có một con đường ở giữa tránh khỏi cực đoan hai bên sai lầm. Cực đoan thứ nhất là sống hưởng thụ ngũ dục, hưởng hết phước quá khứ của mình, vùi tâm hồn trong cấu uế, làm tăng trưởng khát ái dục tham, nuôi lớn ngã chấp vô minh.
Này các tỳ kheo, cực đoan thứ hai là sống ép xác khổ hạnh vô ích. Các ông đã từng nói Như Lai thực hành khổ hạnh mà trước kia chưa bao giờ có ai làm nổi. Và thật sự sau này cũng không có ai có thể làm nổi. Như Lai đã đến ranh giới của cái chết vì khổ hạnh tột cùng, nhưng sự giác ngộ vẫn không xuất hiện. Điều đó chứng tỏ rằng khổ hạnh không phải là con đường đưa đến giác ngộ. Cả hai cực đoan, hưởng thụ hay khổ hạnh, đều không phải là con đường đưa đến giác ngộ. Các ông hãy hiểu rõ điều này.

476200310_122112962588708521_646396430072473281_n.jpg


Thay vì ngồi cầm sách Phật Thích Ca ra đọc, phân tích, nghiền ngẫm thì tụi mày lại thích xem video truyền hình thực tế Minh Tuệ để hóng chuyện, xem drama rồi phán xét Youtuber này tốt, Youtuber kia không tốt. Ông Minh Tuệ đâu phải nhà sư, thầy đúng nghĩa, ông ấy là vận động viên Maraton.
Chút kiến thức rỗng tuếch của mày chỉ có thể lòe được bên voz bên otofun hoặc các diễn đàn toàn bò đỏ khác
Vì tụi nó đéo có tư duy
Chứ mày đừng đem qua xam mà lòe các xamer
Tụi tao toàn là đầu trâu mặt ngựa bên đó bị tụi nó đuổi mới đi qua đây
Chút kiến thức rỗng tuếch của mày ở đây chủ làm trò cười
 
Thằng Báu này lại bị bóc quả bằng tiến sĩ dởm từ lò ấp "viện hàn lâm khxh việt nam", đề tài luận án thì đéo liên quan gì đến tâm lý tội phạm. Nghiệp trổ cứ dần dần không dừng lại :)
XoUNlUu.jpg
 
Thời Đức Phật đã có những nhóm như vậy:

Nhiều nhóm người tự giải phóng ấy có thể được chia thành bốn loại người tầm cầu cứu độ:

1.Nhóm Aupanisadas (Áo Nghĩa Thư)

2.Nhóm Duy vật luận

3.Nhóm Khổ hạnh hành xác.

4.Nhóm du sĩ hành khất.

Thái tử Gotama đến tiếp xúc với tất cả mọi nhóm này trong một thời gian dài hay ngắn tùy trượng hợp, và mỗi nhóm không nhiều thì ít đều đóng góp phần nào vào hệ thống giáo lý của ngài.
Nhóm khổ hạnh: Chữ Phạn “tapasvin”, “khổ hạnh” thường được dịch là “ăn năn hối cải” một cách sai lầm. Sự ăn năn hối cải là một cố gắng bù đắp tội lỗi đã phạm, còn khổ hạnh theo nghĩa Ấn Độ là một cố gắng tạo dựng tương lai. Nó dựa trên niềm tin rằng sự hành xác (tapas là phươngtiện) tạo ra nhiệt lượng (tapas là kết quả) nghĩa là một thần lực tâm linh có thể được tích trữ để sử dụng vào mục đích giải thoát. Điều kiện tiên quyết để thành công là tuyệt đối tiết dục. Nếu người theo khổ hạnh bị nhục dục lôi cuốn, thần lực tapas được tích trữ kia lập tức biến mất hoàn toàn.

Theo niềm tin được phổ biến giữa nhiều người, nhà tu khổ hạnh chứng đắc thần thông do tích lũy ngày càng nhiều thần lực tapas. Trong kinh Rg Veda ta đã biết rằng thần Indra, Thiên Chủ, đạt ngôi cao trên thiên đình nhờ có tapas, nhưng mãi đến các thế kỷ thứ bảy, thứ sáu trước CN, thuyết thần lực tapas mới trở nên thực sự thịnh hành.

Trong văn học Ấn Độ hậu Phật giáo, thuyết này đóng một vai trò quan trọng và chúng ta thường nghe nói nhiều về các nhà tu khổ hạnh trở thành những địch thủ nguy hiểm của thần linh nhờ năng lực tapasđược tích trữ. Các Thiên thần, tìm cách đối phó, liền phái một tiên nữ diễm lệ xuống trần quyến rũ vị khổ hạnh và do đó phá hủy hết công lực của vị này.

Việc các tế sư Bà-la-môn phản đối phong trào khổ hạnh là điều dễ hiểu. Không chỉ người khổ hạnh rời bỏ gia đình, làng xóm làm giảm số khách cúng tế, mà vị khổ hạnh còn thay thế cáchdâng hiến lễ vật bằng cách hy sinh mọi lạc thú của riêng mình, do đó chứng minh rằng có một con đường tự giải thoát cho mỗi người, nên đã làm giảm giá trị của lễ giáo cổ truyền. Theo quan điểm các Bà-la-môn việc chấp nhận đời khổ hạnh hoặc làm du sĩ khất thực chỉ hợp lý trong trường hợp một người đến độ lão niên, đã hoàn thành việc chăm sóc gia đình, đã thực hiện các phận sự của giai cấp mình, và đã có con trai thay thế chức vụ ấy trong đời sống gia đình và xã hội.

Những dấu hiệu bề ngoài của một vị khổ hạnh là từ bỏ tài sản, gia đình, để tóc râu xồm xoàm và thông thường là hoàn toàn lõa thể. Họ sống ẩn dật trong rừng rậm, hoặc thành từng nhóm nhỏ trong các “khóm rừng khổ hạnh”, trong cả hai trường hợp đó đều xa làng xóm thị thành để khỏi bị các gia chủ quấy rầy hay bầy con gái họ khiêu khích dục tình. Nếu một vị khổ hạnh hành trì giới luật khắc khe trong một thời gian dài, vị ấy được xem là thánh thiện và làng xóm lân cận sẽ tự hào đến cung cấp cho vị ấy vài nhu cầu tối thiểu.

Mục đích của một số vị hành trì khổ hạnh khắc nghiệt đôi khi lại không cao thượng lắm đâu. Vì tục ngữ có câu “Cái gì ta không cần thiết hiện nay sẽ được đền bù gấp mười lần”nên cũng không ít vị khổ hạnh đã nhắm trực tiếp đến lạc thú đời sau như mục đích tối hậu của các nỗ lực cá nhân mà từ bỏ lạc thú hiện tại. Đối với một số khác lại lấy mục đích nửa vời làm động cơ phát triển các thần thông do tích trữ công năng khổ hạnh, ví dụ bay như chim, đi trên nước, băng qua tường, biết các vật ở xa hoặc dấu kín, đoán quá khứ, tương lai.

Những năng lực vượt các quy luật tự nhiên hay giới hạn vật chất ấy vẫn thường được quần chúng gán cho những nhà khổ hạnh tu tập lâu năm và được họ ngưỡng mộ dù không có bằng cớ. Song đối với những vị có trí tuệ cao thâm thì mục đích duy nhất xứng đáng tu tập khổ hạnh là sự giải thoát, cho dù giải thoát được quan niệm như sự cọng trú với chư Thiên, hay hợp nhất với một vị thần nào đó, hoặc liễu tri cái Tuyệt Đối và thể nhập vào trong ấy.

Mục đích của các nhà khổ hạnh đều ít nhiều theo lề lối cũ, nhưng phương pháp thì không. Trình độ cao từ những cách hành thiền tinh tế qua các phép thực hiện đặc biệt kỳ dị xuống tận các kiểu tự hành xác thật khủng khiếp ghê tởm, trong số ấy có hình thức phô trương lõa thể là rõ ràng nhất.

Giữa các hình thức kỳ quái hơn nữa là vị khổ hạnh kiểu con bò và chó như trong Trung Bộ Kinh số 37* . Theo bản sớ giải, vị khổ hạnh kiểu con bò mang sừng trên đầu và cột đuôi bò vào mình, rồi thích sống giữa đàn gia súc, còn vị lõa thể theo hạnh con chó thường ngồi: ăn dưới đất, sủa và ngủ cuộn mình lại như con chó!

Hình thức khổ hạnh sơ đẳng nhất là nhịn ăn, đôi khi đến chết. Một số vị khổ hạnh chỉ ăn trái cây hoặc những thứ mọc dưới đất, một số khác chỉ ăn chất lỏng. Một ý kiến độc đáo hơn là nhịn ăn theo tuần trăng: vị khổ hạnh không ăn gì cả vào tuần trăng non, sau đó cho đến tuần trăng tròn họ cứ ăn một muỗng và tăng dần lên mỗi ngày, cuối cùng lại giảm ăn như vậy cho đến tuần trăng mới.

Các tư thế nằm ngồi cũng trở thành phép khổ hạnh. Một số vị đứng suốt ngày dưới nước đến tận hông, một số vị khổ hạnh “kiểu con dơi” thích treo người trên cây ngang qua đầu gối vài giờ mỗi ngày. Có vị luôn ngồi, có vị khác luôn cong người lại, không bao giờ thẳng ra, có vị luôn đứng thẳng trên một chân cho đến khi cây leo mọc quanh mình. Một số khác không hề ngủ, hoặc chỉ nằmtrên giường đinh và đống gai. Thỉnh thoảng lại có các vị khổ hạnh “thờ năm ngọn lửa” ngồi theo thế hoa sen giữa bốn ngọn lửa với mặt và đôi mắt đã mù từ lâu hướng về ngọn lửa thứ năm là mặt trời.

Số người tự hủy hoại thân xác rất nhiều: có kẻ cắt một tay hay chân, kẻ khác lại bẻ gãy nó rồi cho nó mọc ra một góc kỳ quái. Rất thường thấy các người cố ý để cho cánh tay hư nát bằng cách treo ngược lên, hoặc các phép khổ hạnh đi kèm với lời nguyện im lặng, đôi khi rất nghiêm khắc đến độ người ấy không thể đáp lại dù chỉ bằng dáng điệu hay gật đầu.

Tuy nhiên, quan trọng hơn các phép khổ luyện thân xác này là những phép tu tập tinh thần tự chủ. Nhiều vị thực hành các phép luyện hơi thở theo nhịp vào ra điều hòa và do đó tạo nên tâm trạng an lạc. Vị ấy chuyên chú sâu vào nội tâm trong trạng thái thiền định. Giai đoạn trầm tư mặc tưởng sâu nhất là một trạng thái tâm nhập định được xem như giải thoát nhất thờ.
Đm đọc xong nghe nổi da gà :v
 
Đm đọc xong nghe nổi da gà :v
Đọc cái này xong mày mới thực sự sợ
Đây là khổ hạnh mà ông Tất Đạt Đa đã từ bỏ

Thời gian đầu tiên ở rừng quả thật rất khó khăn đối với vị thái tử Sát-đế-lỵ ba mươi tuổi từ thành Kapilavatthu đến. “...Sự quạnh hiu của rừng già quả thật khó chịu đựng, thật khó tìm an lạc trong đời độc cư. Ban đêm khi ta ở lại những nơi đáng khiếp đảm kia, chỉ một con vật đi ngang qua, hay một con công làm gãy cành cây hoặc gió thổi xào xạc giữa đám lá, ta cũng đầy kinh hoàng hốt hoảng”. Như ngài kể cho Bà-la-môn Jànussoni sau này, phải cần nhiều thời gian ngài mới có thể khắc phục được nỗi sợ hãi kia bằng tinh thần tự chủ. (MN 4)* .

Chúng ta có thể nhận ra nhiều giai đoạn khác nhau trong quá trình hành trì khổ hạnh của thái tử. Ngài đã thực hiện nhiều bước khởi đầu khác nhau và không phải khi nào ngài cũng sống đơn độc. Các đoạn văn miêu tả thời kỳ này được đức Phật trình bày cho Saccaka Aggivessana, vị cư sĩ theo đạo Kỳ-na và Sàriputta, đại đệ tử của ngài, trong Trung Bộ Kinh (MN 36 và 12)** .

Nhà khổ hạnh trẻ Siddhattha bắt đầu tầm cầu chân lý bằng cách gắng sức buộc tâm mình phải đạt tri kiến: “Ta nghiến rằng, chận lưỡi trên nóc họng, nhiếp phục tâm ta, ta nỗ lực hàng phục tâm, chế ngự tâm ...” Kết quả là mồ hôi đổ ra từ nách và ngài nhận thấy rằng tâm là một phương tiện có thể làm cho thuần thục, nhưng cứu cánh và giác ngộ thì không thể đạt được bằng cách ép buộc và thiếu trí tuệ.

Hành thiền nín thở” cũng không đem lại kết quả gì, đó là cách kiềm chế hơi thở lại càng lâu càng tốt. Kết quả là không đạt được thiền định hay thắng trí nào cả, mà chỉ nghe tiếng gào thét qua lỗ tai cùng những cơn đau nhức khủng khiếp trong đầu, những cơn co thắt dạ dày và cảm giác nóng bỏng đốt cháy toàn thân.

Hai lần thất bại vì các phương pháp “hướng nội” kể trên khiến thái tử Siddhattha tìm đến các phương pháp “hướng ngoại”. Nếu ta phải tin theo kinh sách (MN 12) thì thấy ngài đã thí nghiệm tất cả mọi phương pháp hành hạ thân xác của đời khổ hạnh. Ngài sống lõa thể và không nhận các loại thức ăn đem đến, nhưng phải đi khất thực các thứ rau quả ngũ cốc của riêng ngài. Tại mỗi nhà, ngài chỉ ăn chừng một nắm tay, có khi lại hạn chế ăn uống chỉ một lần trong bảy ngày. Những khi khác ngài lại ăn thứ cây mọc hoang.

Vào mùa lạnh, ngài mặc áo quần toàn giẻ rách, vải liệm tử thi, da súc vật khô, rơm cỏ hoặc vỏ cây. Ngài không cắt râu tóc mà chỉ nhổ chúng ra. Ngài không ngồi, mà chỉ đứng, dựa lưng hoặc chồm hổm trên gót chân. Nếu cần nằm thì chỉ nằm trên gai nhọn. Ngài bỏ tắm rửa, cứ để mặc lớp đất bụi bám dày tự rụng ra. Đồng thời ngài lại thực hành từ bi cực độ, không làm hại sinh vật nào và thương xót luôn cả giọt nước: “Mong rằng ta không làm hại các sinh vật nhỏ trong ấy”. Ngài chạy trốn đám người chăn bò, cắt cỏ và kiếm củi lúc họ vào rừng và ẩn mình thật kỹ.

Về chốn ở, ngài sống suốt mùa đông Ấn Độ từ tháng mười hai đến tháng giêng trong rừng thưa và ban đêm, khi nhiệt độ chỉ gần điểm 0, ngài sống ngoài trời, còn mùa hạ vào tháng năm, sáu ngài làm ngược lại là sống ban đêm trong rừng rậm giữa làn không khí ngột ngạt oi bức, và ban ngày lại sống ngoài trời dưới ánh nắng gay gắt. Ở đây, ngài thường sống trong các nghĩa địa thiêu xác, bọn trẻ chăn bò khạc nhổ, tiểu tiện trên mình ngài, ném đất vào ngài hoặc lấy cọng cỏ ngoáy lỗ tai ngài. Đôi khi ngài còn ăn cả những thứ không phải là thức ăn thông thường của người khổ hạnh. Khi bọn mục đồng để đàn bò lại một mình, ngài đến kiếm ăn phân bê con và có lúc lại ăn ngay cả phân của chính mình “nếu nó không tiêu hóa hết”.
 
Con đường trung đạo là không phải khổ hạnh như bà la môn của shiva cũng như nuôi dưỡng thân tâm như một người bình thường vẫn đang sống.
Tức ăn 3 bữa mặc quần áo thay đổi ở trong một ngôi nhà bình thường chăm sóc thân thể làm nô lệ cho thân tâm
Con đường trung đạo chính là giới luật của một vị tỳ kheo: 5 giới 8 giới cư sĩ
10 giới sa di, 250 giới tỳ kheo hay 311 giới hoặc 348 giới sa di ni
Hiện tại tất cả các người xuất gia hiện nay đa số đều không phải con đường trung đạo.
Có tao đang tu học trung đạo đây.
 
Nghe đồn báo heo rừng chuẩn bị lập tăng đoàn hạnh đầu đà mới đi từ Việt Nam sang Ấn Độ do báu làm trưởng đoàn và có giáp tham gia
Đang nhờ cộng đồng mạng giới thiệu những vị tu hành tinh tấn cho báu
 
Top